GIÁO LÝ KINH THÁNH
DẪN NHẬP
TIN MỪNG THEO THÁNH
LUCA
DÀN BÀI LUCA
Sau lời tựa, tác giả cũng theo một dàn bài đại khái giống trong Mátthêu
và Máccô:
Nhưng tác giả xếp đặt kỹ lưỡng và cẩn thận hơn nhằm cho thấy rõ được
thời và nơi diễn ra lịch sử cứu độ. Ngoài ra, ông lại còn tỏ ra độc lập và khôn
khéo khi tự ý bỏ điều này thêm điều kia và thay đổi thứ tự các biến cố cho hợp
với quan niệm của mình hơn.
Tin Mừng theo thánh Luca là cuốn thứ ba trong bốn sách Tin Mừng. Cuốn
này có một điểm đặc biệt khác với hai cuốn kia trong bộ Nhất Lãm, là có lời tựa
gửi cho "Thêôphilô", được viết như các tác phẩm viết bằng tiếng Hylạp
thời bấy giờ.
Từ Hylạp "Thêôphilô" chỉ người yêu mến Thiên Chúa hay là bạn
hữu của Thiên Chúa. Nhưng từ này cũng là một tên riêng, có lẽ trong Luca là tên
của một nhân vật có địa vị trong xã hội và đóng một vai trò chính trị thời bấy
giờ, hoặc có cảm tình với Kitô giáo, hoặc muốn tìm hiểu giáo lý của đạo mới
đang được truyền giảng.
Trong lời tựa, tác giả nói rõ chủ đề, phương pháp và mục đích cuốn sách.
Ông trình bày các biến cố xảy ra vào thời Giáo Hội bắt đầu công cuộc rao giảng.
Để làm việc này, tác giả đã điều tra kỹ lưỡng nơi các nhân chứng đầu tiên và
xếp đặt lại các sự kiện cho có thứ tự hầu cung cấp cho ông Thêôphilô một bản
tường thuật xác đáng theo lối các sử gia đương thời (x.3,1-2). Nhưng lịch sử mà
tác giả muốn tường thuật ở đây là lịch sử thánh, khác nghĩa với lịch sử thông
thường, và mục đích của lịch sử này là trình bày ý nghĩa của các sự kiện đối
với đức tin, một đức tin được ánh sáng của mầu nhiệm phục sinh và đời sống của
Giáo Hội soi dẫn.
Chỉ riêng Luca mới có đoạn này. Các bài tường thuật trong đoạn này làm
nổi bật song song hai khuôn mặt: Đức Giêsu và ông Gioan Tẩy Giả, và cố tình cho
thấy khuôn mặt ông Gioan rập theo khuôn mặt Đức Giêsu. Những bài ấy còn nhấn
mạnh đến mầu nhiệm Đức Giêsu xuyên qua một chuỗi những thông điệp siêu nhiên
công bố Người đầu thai bởi quyền năng Thánh Thần, Người là Thánh, là Con Thiên
Chúa (1,35), là Đấng Cứu Thế, là Đấng Kitô và là Đức Chúa (2,11), là ơn cứu độ
Thiên Chúa ban, là ánh sáng muôn dân (2,30-32), nhưng cuối cùng bị đám đông dân
Người chối bỏ (2,34). Vậy để mở đầu Tin Mừng, trước khi mặc khải từng giai đoạn
của mầu nhiệm Đức Giêsu, những trình thuật này cấu tạo một thứ lời tựa có tính
Kitô học, có thể so sánh với lời tựa trong sách Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga
1,1-18).
Như trong Mátthêu và Máccô, phần này đề cập đến sứ mệnh của thánh Gioan
Tẩy Giả, biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa và lần đầu tiên đánh bại những cám dỗ
của Xatan. Nhưng Luca tách biệt rõ ràng thời đại của ông Gioan - còn thuộc về
Cựu Ước - và thời đại của Đức Giêsu (3,20 chú thích). Luca làm nổi bật biến cố
Chúa Cha công nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia sau khi Người chịu phép rửa (3,22
chú thích). Gia phả Đức Giêsu đi ngược lên tới Ađam, cho thấy rõ Đức Giêsu liên
đới với toàn thể nhân loại (3,22-28). Câu kết bài trình thuật Đức Giêsu chịu
cám dỗ (4,13) tiên báo trận chiến quyết liệt trong cuộc Thương Khó của Người.
Tất cả giai đoạn này diễn ra ở Galilê (x. 23,5; Cv 10,37), khác với Mt
15,21; 16,13 và Mc 7,24.31; 8,27. Mở đầu, Luca nói về bài giảng của Đức Giêsu
trong hội đường Nadarét (4,16-30). Bài giảng này khai mào cho tất cả Tin Mừng
tiếp theo: loan báo ơn cứu độ dựa vào Kinh Thánh và được Thần Khí linh hứng,
gợi ý dân ngoại cũng được ơn cứu độ, cho biết trước Đức Giêsu bị đồng bào của
Người chối bỏ và mưu toan hãm hại, và cuối cùng tường thuật các hành động (nhất
là các phép lạ) và các lời giảng dạy của Người. Nhờ vậy, các môn đệ bắt đầu
hiểu được đôi chút về thân thế của Người.
Phần này gồm ba đoạn:
- Đoạn thứ nhất (4,16-6,11) theo khá sát thứ tự trong Mc 1, 16-3,6, và
cho thấy Đức Giêsu đối diện với quần chúng, với các môn đệ đầu tiên, với các
đối thủ qua các phép lạ và những cuộc tranh luận,
- Đoạn thứ hai (6,12-7,50) không có trong Máccô nhưng có trong Mátthêu
tản mạn ở nhiều chỗ, mở đầu bằng việc tuyển chọn Nhóm Mười Hai và chú trọng
trước hết đến lời Đức Giêsu dạy các môn đệ trong bài giảng về các mối phúc
thật,
- Đoạn thứ ba (8,1-9,50) cũng giống như Mc 4,1-9,40, nhưng thiếu phần
song song với Mc 6,45-8,26. Đoạn này nói đến hoạt động của Nhóm Mười Hai được
cộng tác vào sứ mệnh của Đức Giêsu. Nhóm được nêu tên ngay ở Lc 8,1. Các ông
được biết những mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa thay vì chỉ nghe được dụ ngôn
(8,10). Những phép lạ tiếp theo làm cho các ông tự đặt câu hỏi: "Vậy Người
là ai?" (8,25). Sau đó, các ông được sai đi rao giảng về Nước Thiên Chúa
(9,1-6) và được tích cực tham gia vào việc làm cho bánh hóa ra nhiều (9,12).
Cuối cùng, Đức Giêsu có thể buộc các ông phải có lập trường về bản thân Người,
và thánh Phêrô tuyên xưng Người là "Đấng Kitô của Thiên Chúa" (9,20).
Liền sau đó, Đức Giêsu đi sâu vào mầu nhiệm của Người: Người là Đấng Mêsia phải
bị giết chết (9,22), và Chúa Cha, trong vinh quang ngày Hiển Dung, sẽ tuyên bố
trước mặt các ông Người là Con yêu dấu (9,35). Nhưng các ông được lệnh phải giữ
bí mật không được tiết lộ cho ai biết Người là Đấng Kitô của Thiên Chúa.
Phần này dài nhất và cũng độc đáo nhất trong tác phẩm Luca. Nhiều tư
liệu đã có sẵn đó đây trong Mátthêu và Máccô, nhưng chỉ có Luca là trình bày
những tư liệu đó trong khuôn khổ một cuộc hành trình, vì đối với Luca,
Giêrusalem, là trung tâm điểm ơn cứu độ: Đức Giêsu lên Giêrusalem để hoàn thành
ơn cứu độ (Sách Tin Mừng), sau này các Tông Đồ sẽ từ Giêrusalem mang ơn cứu độ
đó cho đến tận cùng trái đất (sách Công Vụ).
Mở đầu là một câu trang trọng hướng cuộc hành trình của Đức Giêsu về
biến cố vượt qua đang tiến tới giai đoạn hoàn tất (9,51). Người lên thành thánh
Giêrusalem, nơi công trình cứu độ phải được thực hiện. Thật ra, cuộc hành trình
này không theo lộ trình địa lý (10,13-15 và 13,31-33 có vẻ còn diễn ra tại
Galilê; còn 13,34-35 thì cho hiểu rằng Đức Giêsu đã rao giảng tại Giêrusalem).
Đây chỉ là một khuôn khổ được tác giả dàn dựng để gom tụ tư liệu của mình dưới
ánh sáng của cuộc vượt qua sắp được hoàn thành.
Trong suốt phần này, lời nói của Đức Giêsu được trọng hơn các phép lạ,
và lời khuyến dụ hơn việc trình bày mầu nhiệm của Người (trừ 10,21-24;
12,49-50; 18,31-33 và 19,12-15). Người vẫn ngỏ lời với Ítraen: cuộc đối chất
giữa Người với nhóm Pharisêu và các nhà thông luật thật là gay gắt (11,37-52);
Người kêu gọi dân Người ăn năn trở lại (12,51-13,9) và nghĩ tới trường hợp lời kêu
gọi của Người bị từ chối (13,23-35; 14,16-24). Người quay về phía các môn đệ,
xác định cho các ông biết sứ mệnh của mình (9,52-10,20), kêu mời các ông cầu
nguyện (11,1-13) và từ bỏ chính mình (12,22-34.51-53; 14,26-33; 16,1-13;
18,28-30). Một phần lớn những lời dạy dỗ các môn đệ nhắm đến hoàn cảnh Người
không còn hiện diện giữa các ông nữa, tức là thời gian Người lên Giêrusalem,
được "rước" đi, nên các ông phải cầu xin Thánh Thần (11,13) và tuyên
xưng Thầy mình trước mặt thiên hạ (12,1-12), phải chờ đợi ngày Người trở lại
(12,35-40; 17,22-18,8; 19,11-27), và chăm lo cho anh em mình trong cộng đoàn
(12,41-48).
Câu Lc 18,15 nối lại trình thuật của Mátthêu (19,15) và Máccô (10,13).
Nhưng ở phần cuối, Luca thêm bài tường thuật ông Dakêu được ơn cứu độ và nhất là
dụ ngôn các yến bạc (19,1-10.11-27). Dưới ngọn bút của tác giả, bài dụ ngôn này
như chuẩn bị cho cuộc đối đầu bi thảm giữa Giêrusalem và vị vua mà thành đó từ
chối không nhìn nhận (x. 19,11 chú thích).
Đây là giai đoạn thứ ba trong sứ mệnh của Đức Giêsu. Giai đoạn này cho
thấy Đức Giêsu hoàn thành công trình cứu độ của Người tại Giêrusalem - được coi
là tiêu biểu cho Ítraen đối diện với Đức Giêsu trong thảm kịch thập giá. Tác
giả nhấn mạnh đến điểm này trong màn đầu, quang cảnh Đức Giêsu khải hoàn vào
thành (19,29-48): Người tiến vào thành như một vì vua (19,35-38); Người khóc
thương thành vì thành từ chối không ra đón nhận Người (19,41-44); Người đuổi
bọn con buôn ra khỏi đền thờ, nơi Người giảng dạy hằng ngày, để chứng tỏ uy
quyền của Người tại đó.
Tác giả mô tả cuộc mặc khải của Đức Giêsu tại Giêrusalem trong ba đoạn
giống như Mátthêu và Máccô, nhưng thêm vào một số nét riêng.
Bài giảng trong đền thờ (20-21) kết thúc bằng lời tiên báo cuộc phán xét
thành Giêrusalem và ngày Con Người xuất hiện. Tác giả viết những lời này cho
toàn thể dân Ítraen.
Bài này cũng theo một lược đồ như các Tin Mừng khác, nhưng bài tường
thuật bữa Tiệc Ly thì có thêm những lời Đức Giêsu giảng dạy Nhóm Mười Hai về
vai trò phục vụ của các ông, về địa vị của các ông trong Nước Trời mai sau, về
hoàn cảnh mới của các ông sau khi Thầy đã ra đi (22,24-38). Những đau khổ Đức
Giêsu phải chịu càng làm nổi bật đức công chính của Người cũng như giá trị mẫu
mực của cuộc Thương Khó Người phải chịu. Khi Đấng Mêsia bị hạ nhục cũng là lúc
Vương Quyền của Người trở thành hiện thực và được khẳng định (x. 22,69 chú
thích; 23,37 chú thích).
Các bài tường thuật về Chúa phục sinh (24) đều được định vị ở Giêusalem.
Những bài này không nhắc đến truyền thống cổ xưa về những lần hiện ra tại
Galilê (Mt 26;32; 28,7.10.16-20; Mc 14,28; 16,7; Ga 21), có lẽ để giữ cho cân
đối với sách Công Vụ. Đây là những bài giải thích cuộc Thương Khó như con đường
Thiên Chúa định để đưa Đức Kitô vào vinh quang của Người (c. 26), theo lời Kinh
Thánh đã chép (cc. 25-27,44-46) và Đức Giêsu cũng đã nhắc lại (c. 7). Cuối
cùng, Chúa Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một để phá tan mối hoài nghi của các ông
(cc. 36-43) và trao cho các ông sứ mệnh làm nhân chứng (cc. 47-49). Sách Tin
Mừng kết thúc bằng bài tường thuật đầu tiên về cuộc thăng thiên (c. 51) chứng
tỏ Đấng phục sinh là Đức Chúa (x. Cv 2,36).
Như vậy, toàn bộ Tin Mừng theo thánh Luca cho thấy rằng mầu nhiệm Đức
Giêsu đã được mặc khải một cách tiệm tiến, và những người phải rao giảng mầu
nhiệm ấy, tức là các Tông Đồ, đã cần một thời gian dài để từ từ tiếp cận và
thấu hiểu mầu nhiệm của Người.
TÁC GIẢ:
Vì sách Công Vụ cũng bắt đầu bằng một lời tựa gửi cho nhân vật Thêôphilô
và nhắc đến quyển sách đầu tiên, nơi tác giả đã nói về "tất cả những gì
Đức Giêsu đã làm và đã dạy" (Cv 1,1-2), nên ngay từ thời Giáo Hội sơ khai,
người ta đã kết luận rằng sách Tin Mừng và sách Công Vụ là do cùng một tác giả.
Khoa chú giải hiện đại đã công nhận điểm này trên cơ sở ngôn ngữ và tư tưởng
của cả hai tác phẩm là đồng nhất, cũng như mục tiêu của cả hai cân đối với
nhau.
Đàng khác, theo một truyền thống đã có từ cuối thế kỷ thứ II (thánh
Irênê), tác giả Tin Mừng thứ ba chính là người thầy thuốc Luca mà thánh Phaolô
đã nói tới ở Cl 4,14; Plm 24; 2Tm 4,11.
Về quê quán và năm sinh của tác giả, người ta không được rõ, chỉ biết
rằng tác giả được ơn trở lại ở Antiôkhia và qua đời bên Hylạp.
Tác giả không được nhìn tận mắt Đức Giêsu mà chỉ tin nhận Người là Chúa
vinh quang qua khuôn mặt của Đấng phục sinh. Nơi tác giả, đức tin của người
được ơn trở lại hướng dẫn cái nhìn của nhà sử học, và đã giúp ông khám phá Đức
Kitô Giêsu trong trẻ thơ thành Bêlem, trong cậu thiếu niên ở đền thờ lúc 12
tuổi, trong vị ngôn sứ hướng cả đời mình về Giêrusalem, nơi mà công trình cứu
độ được hoàn thành.
Thánh Luca cũng là một con người đặc biệt tế nhị, nhất là khi nói về Đức
Giêsu: ngài tránh những lối nói hơi thô của Máccô (Lc 4,1; 8,24.28.45...) và
dành cho Người một danh xưng đặc biệt trên môi các môn đệ (x. 5,5 chú thích).
Ngài được tặng cho danh hiệu là "văn sĩ ca tụng lòng nhân hậu của Đức
Kitô". Thánh Luca lấy làm cảm kích về bản tính nhân loại tuyệt vời của một
vì Thiên Chúa đã tỏ ra xao xuyến trước tình cảnh một bà mẹ vừa mất đứa con duy
nhất; một vì Thiên Chúa làm bạn với hạng tội lỗi bị người ta xa lánh; một vì
Thiên Chúa cảm thông với giới phụ nữ bị người ta khinh bỉ; một vì Thiên Chúa
gần gũi với đám dân nghèo bị người ta chà đạp.
Là thầy thuốc, nên tác giả viết về bệnh tật một cách chính xác, và cũng
thế biết rung cảm trước những khổ đau nơi thân xác con người. Phải chăng vì
vậy, trong tác phẩm của mình, tác giả đã dành cho những người nghèo khổ, ốm
đau, tội lỗi và phụ nữ một chỗ đặc biệt, với những lời lẽ đầy ngọt ngào an ủi?
Tác giả lại còn có tài văn chương, thông thạo văn hóa Hylạp. Tác phẩm có
nhiều ưu điểm: lời văn sáng sủa, mạch lạc, nhuần nhuyễn một cách linh động theo
những đề tài khác nhau, và chứng tỏ một bút pháp thật điêu luyện ở một vài đoạn
(1,1-4; 24,13-35). Cách trình bày có trật tự và nghệ thuật, phác họa nét độc
đáo của cốt truyện. Ngôn ngữ Luca phong phú nhất trong tất cả các sách Tân Ước.
ĐỘC GIẢ:
Độc giả được nêu tên là ông Thêôphilô, một nhân vật tượng trưng và cũng
có thể là một nhân vật thiết thực. Dù sao, đó cũng là một nhân vật tiêu biểu
cho những người Kitô hữu gốc ngoại giáo và theo văn hóa Hylạp. Có nhiều bằng
chứng yểm trợ cho lời xác quyết này như văn từ, những lời giải thích về địa dư
nước Paléttin (1,26; 2,4; 4,31; 8,26; 23,51; 24,13) và tập tục người Dothái
(1,9; 2,23-24.41-42; 22,1.7); sự ân cần đối với dân ngoại, những chỗ nhấn mạnh
cho thấy Chúa Giêsu phục sinh có thể xác thật sự (24,39-43), điều mà người
Hylạp rất khó chấp nhận (Cv 17,33; 1Cr 15).
Như vậy, độc giả của Tin Mừng thứ ba là cả người trong đạo lẫn người
ngoài đạo. Người trong đạo thì nhờ đọc Tin Mừng này mà thêm hiểu biết về Đức
Kitô và đạo lý của Người. Còn người ngoài đạo thì, nếu đọc sách này với tinh
thần vô tư và khách quan, sẽ nhận thấy Kitô giáo không phải là một phong trào
chính trị hay một giáo phái dành cho một thiểu số, mà là một niềm tin
"công giáo", nghĩa là có thể truyền đạt đến cho mọi người ở khắp mọi
nơi.
Sau cuộc giết hại các tín hữu vào năm 64 do bạo chúa Nêrô, nhiều người
có thiên kiến và tỏ ra ác cảm với Kitô giáo. Nhưng nhờ đọc sách này, họ sẽ thấy
rằng Đức Kitô là người vô tội. Tính chất vô tội này đã được tổng trấn Philatô,
viên toàn quyền của Rôma ở Paléttin, xác nhận khi ông nói: "Ta xét thấy
người này không có tội gì đáng chết" (Lc 23,4.15.22).
THỜI GIAN VÀ NƠI BIÊN SOẠN:
Muốn biết thời gian biên soạn sách Tin mừng thứ ba, phải dựa vào thời kỳ
Giêrusalem bị quân đội Rôma tàn phá, dưới quyền chỉ huy của tướng Titút.
Mátthêu và Máccô có nói đến quang cảnh này, nhưng đặt nó vào viễn tượng cánh
chung, còn Luca thì tách rời ra. Dường như tác giả có biết thời kỳ Giêrusalem
bị bao vây và tàn phá vào năm 70 (x. 19,43-44; 21,20.24). Như vậy, sách phải
được viết sau thời gian này; các nhà chú giải hiện nay cho là vào thập niên
80-90, nhưng cũng có một số khác lại cho là sớm hơn.
Về nơi biên soạn, không thấy truyền thống để lại dấu vết gì, nên không
thể nói chính xác được là viết ở đâu, tuy có dư luận cho rằng sách được viết ở
Akhaia hoặc bên Aicập. Nhưng không lấy gì làm chắc và có lẽ dư luận đó muốn nói
rằng Tin Mừng được loan báo chứ không phải được biên soạn tại hai nơi ấy.
MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP BIÊN SOẠN:
Trong lời tựa, thánh Luca đã giải thích điều ngài muốn làm và cách thế
tiến hành công việc. Ngài cho biết sẽ "tường thuật những điều đã được thực
hiện giữa chúng ta", có nghĩa là tường thuật cuộc đời Đức Giêsu và thời kỳ
thành lập Giáo Hội. tác giả không phải là người đầu tiên làm công việc này mà
đã có những vị đi trước (có lẽ ám chỉ thánh Máccô), nên người sẽ dựa vào
"truyền thống" của "những người đã được chứng kiến ngay từ đầu
và đã phục vụ lời Chúa", nghĩa là những người đang rao giảng Tin Mừng và
trước hết là các Tông Đồ.
Việc biên soạn rất công phu, sử dụng các dữ kiện của truyền thống, khiến
một số độc giả đặt vấn đề về tính lịch sử của Luca. Vấn đề này phức tạp và đòi
hỏi phải nghiên cứu cả phương pháp được dùng cho sách Công Vụ các Tông Đồ (x.
Công Vụ). Trong khuôn khổ việc nghiên cứu Tin Mừng này, trước hết, ta biết rằng
tác giả đã tuyên bố ý định "cẩn thận tra cứu" và "tuần tự viết
ra" (1,1-4); ta cũng có thể nhìn nhận giá trị của một số lớn những điều
tác giả đưa ra. Tuy nhiên, một đàng, tác giả nhìn "sự kiện Giêsu" với
tất cả niềm tin của mình - điều mà các nhà sử học cho là một suy diễn cá nhân
vượt ranh giới lịch sử. Đàng khác, khi tường thuật lời nói và việc làm của Đức
Giêsu, tác giả quan tâm trước hết đến ý nghĩa của nó; đôi lúc ông tỏ ra không
kể gì đến thứ tự thời gian (4,16-30; 5,1-11; 24,51) hoặc địa lý (10,13-15;
13,34-35; 24,36-49); các đoạn riêng của Luca đều có ý nghĩa đặc biệt (1-2;
4,16-30;5,1-11...). Mối quan tâm hàng đầu của tác giả không phải là mô tả cho
chính xác các sự kiện như đã xảy ra, mà là công bố cuộc đời Đức Giêsu, coi đó
chính là lịch sử cứu độ. Thánh nhân tự trao cho mình bổn phận "giải
mã" các biến cố, và ngài đã làm điều đó trong ánh sáng của truyền thống
Giáo Hội. Công trình của ngài là của tác giả một sách Tin Mừng.
ĐẠO LÝ:
1. Vì có ý định viết thêm một cuốn sách thứ hai (Công Vụ) để tường thuật
công cuộc rao giảng của các Tông Đồ, nên tác giả Luca phân biệt hai thời đại rõ
ràng hơn Mátthêu và Máccô: thời đại Đức Giêsu và thời đại Giáo Hội. Sách Tin
Mừng cho thấy Đức Giêsu chỉ hoạt động cho Ítraen. Dĩ nhiên trong Luca, sứ điệp
cứu thế có tính cách phổ quát, đại đồng, nhưng luôn luôn được ghi trong những
đoạn nhắc về tương lai (2,32; 3,6; 13,29; 14,16-24) hoặc qua những tiền ảnh, mô
hình (3,23-38; 4,25-27; 7,9; 8,39; 10,1; 17,11-19). Chỉ có Chúa phục sinh mới
trao sứ mệnh đi đến với muôn dân (24,47,48).
Sau đó, các Tông Đồ sẽ hoàn thành sứ mệnh này nhờ được ban Thánh Thần
(24,49; x. 12,12). Nhưng trong Luca, chỉ có Đức Giêsu, Đấng đã nhập thể bởi
Thánh Thần (1,35), mới hành động với quyền năng của Thánh Thần (3,22;
4,1.14.18; 10,21).
Trong bài tường thuật thời thơ ấu, ông Simêon tiên báo Đức Giêsu sẽ bị
nhiều người trong Ítraen chối từ (2,34-35). Luca cho thấy sự chối từ này ngày
càng thêm rõ rệt, những giai đoạn thập giá không phải là giai đoạn tối hậu, vì
sau ngày Ngũ Tuần, các Tông Đồ còn kêu gọi các người Dothái thành Giêrusalem
hồi tâm sám hối và nhận lãnh ơn cứu độ.
2. Bằng cách phân biệt rõ ràng thời đại Đức Giêsu và thời đại Giáo Hội, Luca muốn cho thấy rõ bàn tay Thiên Chúa tác động trong lịch sử loài
người qua những giai đoạn kế tiếp nhau. Nhưng cách trình bày này không bao giờ
làm cho tác giả quên rằng, trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã một lần dứt
khoát ban ơn cứu độ cho loài người. Vì thế, ngay từ đầu, Luca đã nhấn mạnh rằng
ơn cứu độ là cho ngày hôm nay (2,11; 3,22; 4,21; x. 5,26; 19,9; 23,43). Quả
thật, ngay từ giây phút đầu, Đức Giêsu đã là Con Thiên Chúa (,35), là Đấng Cứu
Độ (2,11; x. 1,69-71.77; 2,30; 3,6), là Đức Chúa (2,11; x. 7,13 chú thích cho
thấy Luca nhấn mạnh trên tước hiệu này); Người khởi đầu công cuộc rao giảng
bằng lời loan báo Tin Mừng cứu độ dành cho người nghèo khổ, nhỏ hèn (4,18; x.
7,22; 10,21).
Khi mô tả thời đại Đức Giêsu, Luca đã nghĩ tới thời đại Giáo Hội. Hơn
Mátthêu và Máccô, Luca thường gọi nhóm Mười Hai là Tông Đồ (x. 6,13 chú thích),
nói về nhiệm vụ các ngài trong các cộng đoàn (9,12; 12,41-46; 22,14-38) và
những người sẽ trợ giúp các ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng (10,1; x.
8,2-3.39).
Hơn nữa, trong giáo huấn của Đức Giêsu, Luca cố ý chỉ cho thấy đâu là
luật sống "hằng ngày" của người môn đệ (9,23; 11,3; 17,4).
Tác giả:
- đặt trọng tâm ở việc sám hối ăn năn (5,32; 13,1-5; 15,4-32 và nhất là
ở 7,36-50; 19,1-10; 23,39-43), ở lòng tin (1,20.45; 7,50; 8,12-13; 17,5-6;
18,8; 22,32; 24,25) được diễn đạt trong lời tuyên xưng danh Chúa (12,2-12;
21,12-19),
- nhấn mạnh việc cầu nguyện (11,1-13; 18,1-8; 21,36; 22,40-46) như Đức
Giêsu thường cầu nguyện (x. 3,21 chú thích); bài học bác ái yêu thương được coi
là bài học nồng cốt danh cho môn đệ (6,27-42; x. 10,25-37; 17,3-4),
- thường hay đề nghị biểu lộ đức ái trong việc bố thí (x. 11,41 chú
thích), cũng là cách lý tưởng thể hiện thái độ dứt khoát từ bỏ tiền tài (x.
5,11 chú thích; 14,33 chú thích).
Những đòi hỏi này rất nghiêm trọng, nhưng Luca chiếu tỏa niềm vui nhiều
hơn Mátthêu và Máccô, vì ơn cứu độ của Thiên Chúa gieo rắc niềm vui:
Niềm vui:
- trước những lời loan báo ơn cứu độ (1,14.28.41.44; 6,23; 8,13),
- những lần Đức Giêsu xuất hiện như là Đấng cứu độ (1,47; 2,11),
- trước các phép lạ (10,17; 13,17; 19,37),
- khi Tin Mừng cứu độ được đón nhận (10,21) và khi người có tội ăn năn
hối cải (15; 19,6),
- khi được thấy vinh quang của Đấng phục sinh (24,52).
3. Đức Giêsu đã tiên báo rằng Người sẽ quang lâm vào thời sau hết: Luca đặt viễn tượng thời sau hết ở điểm thời đại Giáo Hội kết thúc
(12,35-48; 17,22-37; 18,8; 19,11-27; 21,5-36). Tuy nhiên Luca luôn nhấn mạnh
những điều như:
- "ngày hôm nay" đã có ơn cứu độ,
- Đức Giêsu phục sinh là Chúa,
- Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong Giáo Hội,
nên trong Luca tính khẩn trương của cuộc quang lâm bị giảm đi (x. 17,23
chú thích). Niềm hy vọng nơi Luca chan chứa hoan lạc vì ơn cứu độ đã có được
ngay hôm nay. Cũng thế, biến cố thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá được Luca tiên
báo nhiều lần (x. 19,27 chú thích) nhưng không có tính cách cánh chung nữa, mà
chỉ là một biến cố lịch sử để trừng phạt những người có trách nhiệm trong vụ án
giết chết Đức Giêsu.
Ngoài ra, chỉ nguyên bố cục trong Luca cũng có thể cho thấy quan niệm
của tác giả về lịch sử cứu độ (xem dàn bài).
Trong các sách Tin Mừng, có thể xem Luca là tác phẩm dễ đọc hơn hết và
gần gũi nhất với độc giả thời nay. Những nét nổi bật về Đức Giêsu sẽ giúp họ
tiếp cận "mầu nhiệm Giêsu" và học nơi Người như học bậc thầy dạy cho
biết sống làm người, làm con Thiên Chúa, một bậc thầy rất đòi hỏi nhưng đồng
thời nhân hậu, niềm nở và sẵn sàng ban ơn cứu độ.
MỞ ĐẦU LUCA: LỜI TỰA
Chương 1:
(1) Thưa ngài Thêôphilô đáng kính, có nhiều người đã ra công biên soạn
bản tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta. (2) Họ viết theo
những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa
truyền lại cho chúng ta. (3) Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi
mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài
sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc.
I. THỜI THƠ ẤU: ÔNG GIOAN TẨY GIẢ VÀ ĐỨC GIÊSU SINH
RA VÀ SỐNG ẨN DẬT
Chương 1
(tiếp theo)
Truyền tin cho ông Dacaria
(5) Thời vua Hêrôđê cai trị miền Giuđê, có một vị tư tế thuộc nhóm Avia,
tên là Dacaria; vợ ông là bà Elisabét cũng thuộc dòng tộc tư tế Aharon. (6) Cả
hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi
điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. (7) Nhưng họ
lại không có con, vì bà Elisabét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao
niên.
(8) Chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa
theo phiên của nhóm ông. (9) Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông
đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa, (10) còn toàn dân
đông đảo thì cầu nguyện ở bên ngoài, trong giờ dâng hương.
(11) Vậy một sứ thần của Chúa hiện ra với ông đứng bên phải hương án.
(12) Thấy vậy, ông Dacaria bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. (13) Nhưng
sứ thần bảo ông: "Này ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông
cầu xin: bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt
tên cho con là Gioan. (14) Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng
được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. (15) Vì em bé sẽ đưa nhiều con cái Ítraen
về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. (17) Em sẽ đi trước mặt Người, đầy thần
khí và uy quyền của ngôn sứ Êlia, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu,
để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị
một dân sẵn sàng đón Chúa". (18) Ông Dacaria thưa với sứ thần: "Dựa
vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã gìa, và nhà tôi cũng đã lớn
tuổi". (19) Sứ thần đáp: "Tôi là Gáprien, hằng đứng chầu trước mặt
Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. (20)
Và này đây, ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi
vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng
buổi". (21) Dân chúng đợi ông Dacaria, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong
cung thánh lâu như thế. (22) Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng
biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho
họ và vẫn bị câm.
(23) Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. (24) Ít lâu
sau, bà Elisabét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng cất nỗi hổ nhục tôi phải
chịu trước mặt người đời".
(26) Bà Elisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần
Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, (27) gặp một trinh nữ đã
đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
(28) Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy
ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà. (29) Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời
chào như vậy có nghĩa gì.
(30) Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng
Thiên Chúa. (31) Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là
Giêsu. (32) Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa
là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. (33) Người
sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô
tận."
(34) Ba Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi
không biết đến việc vợ chồng !"
(35) Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng
Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và
được gọi là Con Thiên Chúa. (36) Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy gìa
rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm
hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. (37) Vì đối với Thiên Chúa, không có gì
là không thể làm được.
(38) Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin
Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
Đức Maria viếng thăm bà Êlisabét
(39) Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành
thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. (41)
Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và
bà được trần đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được
chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc
phúc. (43) Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy?
(44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy
lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì
Người đã nói với em."
Bài Ca "Ngợi Khen" (Magnificat)
(46) Bấy giờ bà Maria nói:
"Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa,
(47) thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
(48) Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẻ khen tôi diễm phúc.
(49) Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi
biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
(50) Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai
kính sợ Người.
(51) Chúa giơ tay biểu dương sức
mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu
căng.
(52) Chúa hạ bệ những ai quyền
thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm
nhường.
(53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của
đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay
trắng.
(54) Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ
của Người,
(55) như đã hứa cùng cha ông
chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Ápraham
và cho con cháu đến muôn đời”.
(56) Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Ông Gioan Tẩy Giả ra đời, làng giềng chia vui
(57) Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabét sinh hạ một con trai.
(58) Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia
vui với bà.
Ông Gioan Tẩy Giả chịu phép cắt bì
(59) Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên
cha là Dacaria mà đặt cho em. (60) Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: "Không, phải
đặt tên cháu là Gioan". (61) Họ bảo bà: "Trong họ hàng của bà, chẳng
ai có tên như vậy cả". (62) Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn
đặt tên cho em bé là gì. (63) Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu
là Gioan". Ai nấy đều bỡ ngỡ. (64) Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra,
ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. (65) Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và
các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđê. (66) Ai nghe cũng để tâm suy
nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?" Và quả thật có
bàn tay Chúa phù hộ em.
Bài ca "Chúc Tụng" (Benedictus)
(67) Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Dacaria, được đầy Thánh Thần,
liền nói tiên tri rằng:
(68) "Chúc túng Đức Chúa là
Thiên Chúa Ítraen
đã viếng thăm cứu chuộc dân
Người.
(69) Từ dòng dõi trung thần
Đavít,
Người đã cho xuất hiện
Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta,
(70) như Người đã dùng miệng các
vị thánh ngôn sứ
mà phán hứa tự ngàn xưa:
(71) sẽ cứu ta thoát khỏi địch
thù,
thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét;
(72) sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ
tiên
và nhớ lại lời xưa giao ước;
(73) Chúa đã thề với tổ phụ
Ápraham
rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay
địch thù,
(74) và cho ta chẳng còn sợ hãi,
(75) để ta sống thánh thiện công
chính trước nhan Người,
mà phụng thờ Người suốt cả đời
ta.
(76) Hài Nhi hỡi, con sẽ mang
tước hiệu
là ngôn sứ của Đấng Tối Cao:
con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho
Người,
(77) bảo cho dân Chúa biết: Người
sẽ cứu độ
là tha cho họ hết mọi tội khiên.
(78) Thiên Chúa ta đầy lòng trắn
ẩn,
cho Vầng Đông tự chốn cao vời
viếng thăm ta.
(79) Soi sáng những ai ngồi nơi
tăm tối
và trong bóng tối tử thần,
dẫn ta bước vào đường nẻo bình
an".
Ông Gioan Tẩy Giả sống ẩn dật
(80) Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong
hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítraen.
Chương 2:
Đức Giêsu ra đời. Những người chăn chiên đến viếng thăm
(1) Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong
khắp cả thiên hạ. (2) Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông
Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria. (3) Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên
tuổi. (4) Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê, lên thành Bêlem,
miền Giuđê, là thành vua Đavít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đavít. (5)
Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang
có thai. (6) Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai
hoa. (7) Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ,
vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
(8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm
canh giữ đàn vật. (9) Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa
chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. (10) Nhưng sứ thần bảo họ:
"Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là
tin mừng cho toàn dân: (11) Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em
trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. (12) Anh em cứ dấu này mà
nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng
cỏ". (13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen
Thiên Chúa rằng:
(14) Vinh danh Thiên Chúa trên
trời.
bình an dưới thế cho loài người
Chúa thương.
(15) Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những
người này bảo nhau: "Nào chúng ta
sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết".
(16) Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài
Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với
họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc
nhiên. (19) Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại
trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng
Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với
họ.
Đức Giêsu chịu phép cắt bì
(21) Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì,
người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi
Hài Nhi thành thai trong lòng me.
Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa
(22) Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria
và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, (23) như đã chép
trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai
đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa", (24) và cũng để
dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
(25) Và này đây, tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ông là người công
chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng
ngự trên ông. (26) Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không
thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. (27) Được Thần Khí
dun dủi, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn
tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, (28) thì ông ẵm lấy Hai Nhi trên
tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
Bài ca "An Bình Ra Đi" (Nunc dimittis)
(29) Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra
đi.
(30) Vì chính mắt con được thấy
ơn cứu độ
(31) Chúa đã dành sẵn cho muôn
dân:
(32) Đó là ánh sáng soi đường cho
dân ngoại,
là vinh quang của Ítraen Dân
Ngài.
Ông Simêon nói tiên tri
(33) Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người.
(34) Ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi:
"Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải
vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng (35)
còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ
thâm tâm nhiều người phải lộ ra.
Bà Anna nói tiên tri
(36) Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuen, thuộc chi
tộc Ase. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy
năm, (37) rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ,
những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. (38) Cũng vào lúc ấy,
bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang
mong chờ gặp ngày Thiên Chúa cứu chuôc Giêrusalem.
Đức Giêsu sống ẩn dật tại Nadarét
(39) Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở
về nơi cư ngụ là Nadarét, miền Galilê. (40) Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên,
thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
Đức Giêsu ngồi giữa các bậc thầy DoThái
(41) Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt
Qua. (42) Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục
ngày lễ. (43) Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại
Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. (44) Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với
đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người
quen thuộc. (45) Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.
(46) Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi
giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. (47) Ai nghe cũng ngạc nhiên
về trí thông minh và những lời đáp của cậu. (48) Khi thấy con, hai ông bà sửng
sốt, và mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như
vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !" (49)
Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở
nhà của Cha con sao?" (50) Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
Đức Giêsu còn sống ẩn dật tại Nadarét
(51) Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng
phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.
(52) Còn Đức Giêsu, ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người
thương mến.
II. ĐỨC GIÊSU CHUẨN BỊ THI HÀNH SỨ MỆNH
Chương 3:
Ông Gioan Tẩy giả rao giảng
(1) Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô
làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là
Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhonít, Lyxania làm tiểu vương miền
Abilên, (2) Khanna và Caiphai làm thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con
ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa. (3) Ông liền đi khắp vùng ven sông
Giođan, rao giảng kêu gọi người ta chiu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha
tội, (4) như có lời chép trong sách sứ Isaia rằng:
Có tiếng người hô trong hoang
địa:
hãy dọn sẵn con đường của Đức
Chúa,
sửa lối cho thẳng để Người đi.
(5) Mọi thung lũng, phải lấp cho
đầy,
mọi núi đồi, phải bạt cho thấp,
khúc quanh co, phải uốn cho ngay,
đường lồi lõm, phải san cho
phẳng.
(6) Rồi hết mọi người phàm
sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
(7) Đám đông lũ lượt kéo đến xin ông Gioan làm phép rửa; ông nói với họ:
"Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa sắp giáng xuống vậy? (8) Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám
hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham"; vì,
tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thê làm cho những hòn đá này trở nên con
cháu ông Ápraham. (9) Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả
tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa".
(10) Đám đông hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải làm gì đây?" (11)
Ông trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì
cũng làm như vậy". (12) Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ
hỏi ông: "Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?" (13) Ông bảo họ:
"Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình". (14) Binh lính cũng
hỏi ông: "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?" Ông bảo họ:
"Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của
mình".
(15) Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi
về ông Gioan: biết đâu ông chẳng là Đấng Mêsia. (16) Ông Gioan trả lời mọi
người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng
quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm
phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. (17) Tay Người cầm nia rê sạch lúa
trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề
tắt mà đốt đi". (18) Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà
loan báo Tin Mừng cho họ.
Ông Gioan Tẩy Giả bị bỏ tù
(19) Còn tiểu vương Hêrôđê thì bị ông Gioan khiển trách vì đã lấy người
em dâu là bà Hêrôđia, và vì tất cả các tội ác tiểu vương đã phạm. (20) Ngoài
ra, tiểu vương còn phạm thêm tội này là bỏ tù ông Gioan.
Đức Giêsu chịp phép rửa
(21) Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa; sau
đó, đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, (22) và Thánh Thần ngự xuống
trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con
là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra con.
Gia phả Đức Giêsu Kitô
(23) Khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ
tưởng Người là con ông Giuse. Ông Giuse là con ông Êli, (24) ông Êli con ông
Mátthát, ông Matthát con ông Lêvi, ông Lêvi con ông Manki, ông Manki con ông
Giannai, ông Giannai con ông Gioxép. (25) Ông Gioxép con ông Matthithia, ông
Mátthithia con ông Amốt, ông Amốt con ông Nakhum, ông Nakhum con ông Khétli,
ông Khétli con ông Nácgai. (26) Ông Nác gai con ông Makhát, ông Makhát con ông
Máthithia, ông Máthithia con ông Simi, ông Simi con ông Gioxếch, ông Gioxếch
con ông Gioađa. (27) Ông Giođa con ông Giokhanan, ông Giokhanan con ông Rêsa,
ông Rêsa con ông Dơrúpbaven, ông Bơrúpbaven con ông Santiên.
Ông Santiên con ông Nêri, (28) ông Nêri con ông Manki, ông Manki con ông
Átđi, ông Átđi con ông Coxam, ông Coxam con Giêsu, ông Giêsu con ông Êliede,
ông Êliede con ông Giorim, ông Giorim con ông Mátthát, ông Matthát con ông
Lêvi. (30) Ông Lêvi con ông Simêon, ông Simêon con ông Giuđa, ông Giuđa con ông
Gioxép, ông Gioxép con ông Gionam, ông Gionam con ông êliakim, (31) ông Êliakim
con ông Malia, ông Malia con ông Mina, ông Mina con ông Máttháttha, ông
Mátthátha con ông Nathan, ông Nathan, ông Nathan con ông Đavít.
(32) Ông Đavít con ông Giesê. Ông Giesê con ông Ôvét, ông Ôvét con ông
Bôa, ông Bôa con ông Xala, ông Xala con ông Nácson. (33) Ông Nácson con ông
Amminađáp, ông Amminađáp con ông Átmin, ông Átmin con ông Ácni, ông Ácni con
ông Khétron, ông khétron con ông Perét, ông Perét con ông Giuđa. (34) Ông Giuđa
con ông Giacóp, ông Giacóp con ông Ixaác, ông Ixaác con ông Ápraham.
Ông Ápraham con ông Terác, ông Terác con ông Nakho. (35) Ông Nakho con
ông Xơrúc, ông Xơrúc con ông Rơu, ông Rơu con ông Pheléc, ông Pheléc con ông
Êve. Ông Êve con ông Dalác. (36) Ông Dalác con ông Kênan, ông Kênan con ông
Ácpácsát, ông Ácpácsát con ông Sem, ông Sem con ông Nôê, ông Nôê con ông Laméc.
(37) Ông Laméc con ông Mơthuselác. Ông Mơthuselác con ông Khanốc, ông Khanốc con
ông Gierét, ông Gierét con ông Mahalaên, ông Mahalalên con ông Kênnan. (38) Ông
Kênnan con ông Enốt, ông Enốt con ông Sết, ông Sết con ông Ađam và ông Ađam là
con Thiên Chúa.
Chương 4:
Đức Giêsu chịu cám dỗ
(1) Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về, và được Thánh
Thần dẫn đi trong hoang địa (2) bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ. Trong những
ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. (3)
Bấy giờ, quỷ nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn
đá này hoá bánh đi !" (4) Nhưng Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép
rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh".
(5) Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người
thấy tất cả các nước thiên hạ. (6) Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông
toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy
đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. (7) Vậy nếu ông bái lạy tôi,
thì tất cả sẽ thuộc về ông". (8) Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép
rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng
một mình Người mà thôi.
(9) Quỷ đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi
nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống
đi ! (10) Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn,
để luôn luôn gìn giữ bạn.
(11) Lại còn chép rằng:
“Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng,
cho bạn khỏi vấp chân vào
đá".
(12) Bấy giờ Đức Giêsu đáp lại:
"Đã có lời rằng:
Ngươi chớ thử thách Đức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi".
(13) Sau khi đã soay hết cách để cảm dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời
cơ.
III. ĐỨC GIÊSU RAO GIẢNG TẠI MIỀN GALILÊ
Chương 4:
(tiếp theo)
Đức Giêsu bắt đầu rao giảng
(14) Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và
tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. (15) Người giảng dạy trong các hội
đường của họ, và được mọi người tôn vinh.
Đức Giêsu tại Nadarét
(16) Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội
đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh. (17)
Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng:
(18) Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ
nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi công bố
cho kẻ bị giam cầm biết họ được
tha,
cho người mù biết họ được sáng
mắt,
trả lại tự do cho người bị áp
bức,
(19) công bố một năm hồng ân của
Chúa.
(20) Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi
ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. (21) Người bắt đầu
nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe".
(22) Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng
Người.
Họ bảo nhau: "Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?"
(23) Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy
lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại
Caphácnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào !" (24) Người
nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại
quê hương mình.
(25) "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thiếu gì bà goá ở trong
nước Ítraen vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nuớc
phải đói kém dữ dội, (26) thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả,
nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđon. (27) Cũng vậy,
thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ítraen vào thời ngôn sứ Êlisa, nhưng
không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyria thôi".
(28) Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. (29) Họ đứng dậy,
lôi Người ra khỏi thành--thành này được xây trên núi họ kéo Người lên tận đỉnh
núi, để xô Người xuống vực. (30) Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Đức Giêsu giảng dạy tại Caphácnaum và chữa lành một
người bị quỷ ám
(31) Người xuống Caphácnaum, môt thành miền Galilê, và ngày sabát, Người
giảng dạy họ. (32) Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì Người nói năng có
thẩm quyền.
(33) Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên
rằng: (34) "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến
tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa
!" (35) Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người
này !" Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta,
nhưng không làm hại gì anh. (36) Nỗi kinh ngạc trùm lên mọi người, và họ nói
với nhau: "Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh
cho các thần ô uế, và chúng phải xuất !" (37) Và tiếng đồn về Người lan ra
khắp nơi trong vùng.
Đức Giêsu chữa bà mẹ vợ ông Simon
(38) Đức Giêsu rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Simon. Lúc ấy, bà mẹ
vợ ông Simon đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. (39) Đức Giêsu cúi xuống
gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt rời khỏi bà: tức khắc bà chỗi dậy phục
vụ các ngài.
Đức Giêsu chữa lành nhiều người đau yếu
(40) Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh
hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. (41) Quỷ
cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa !"
Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Kitô.
Đức Giêsu rao giảng tại miền Giuđê
(42) Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến
tận nơi Người đang ở và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. (43) Nhưng
Người nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các
thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó". (44) Và Người rao
giảng trong các hội đường miền Giuđê.
Chương 5:
Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên
(1) Một hôm, đám đông chen lấn nhau đến sát bên Người để nghe lời Thiên
Chúa, mà Người thì đang đứng bên bờ hồ Ghennêxarét. (2) Người thấy hai chiếc
thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang
giặt lưới. (3) Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và
Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên
thuyền Người giảng dạy đám đông.
(4) Giảng xong, Người bảo ông Simon: Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới
bắt cá". (5) Ông Simon đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm
mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới". (6) Họ
đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. (7) Họ
Làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới,
và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
(8) Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói:
"Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !" (9) Quả vậy,
thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông
đều kinh ngạc. (10) Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài
với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon:
"Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá. (11) Thế là họ đưa thuyền
vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
Đức Giêsu chữa người bị phong hủi
(12) Khi ấy, Đức Giêsu đang ở trong một thành kia; có một người đầy
phong hủi vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: "Thưa Ngài,
nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". (13) Người giơ tay đụng
vào anh ta và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi". Lập tức, chứng phong hủi
biến khỏi anh. (14) Rồi Người truyền anh ta không được nói với ai, và Người
bảo: "Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng của lễ
như ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.
(15) Tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để
nghe Người và để được chữa bệnh. (16) Nhưng Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu
nguyện.
Đức Giêsu chữa người bại liệt
(17) Một hôm, khi Đức Giêsu giảng dạy, có mấy người Pharisêu và luật sĩ
ngồi đó; họ từ khắp các làng mạc miền Galilê, Giuđê và từ Giêrusalem mà đến.
Quyền năng Chúa ở với Người, khiến Người chữa lành các bệnh tật. (18) Và kià có
mấy người khiêng đến một bệnh nhân bị bại liệt nằm trên giường, họ tìm cách đem
vào đặt trước mặt Người. (19) Nhưng vì có đám đông, họ không tìm được lối đem
người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả người ấy cùng với cái
giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giêsu. (20) Thấy họ có lòng tin như
vậy, Người bảo: "Này anh, anh đã được tha tội rồi".
(21) Các kinh sư và các người Pharisêu bắt đầu suy nghĩ: "Người
đang nói phạm thượng là ai vậy? Ai có quyền tha tội ngoài một mình Thiên Chúa
ra?" (22) Nhưng Đức Giêsu thấu biết họ đang suy nghĩ như thế, nên Người
lên tiếng bảo họ rằng: "Trong bụng các ông đang nghĩ gì vậy? (23) Trong
hai điều: một là bảo: "Anh đã được tha tội rồi", hai là bảo:
"Đứng dậy mà đi", điều nào dễ hơn? (24) Vậy, để các ông biết: ở dưới
đất này, Con Người có quyền tha tội - Đức Giêsu bảo người bại liệt: tôi truyền
cho anh: Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà !" (25) Ngay
lúc ấy, người bại liệt chỗi dậy trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa
đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa.
(26) Mọi người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo
nhau: "Hôm nay, chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ !".
Đức Giêsu kêu gọi ông Lêvi
(27) Sau đó, Đức Giêsu đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là
Lêvi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi !"
(28) Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người.
Đức Giêsu dùng bữa với những người tội lỗi tại nhà
ông Lêvi
(29) Ông Lêvi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu
thuế và những người khác cùng ăn với các ngài. (30) Những người Pharisêu và
những kinh sư thuộc nhóm của họ mới lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giêsu rằng:
"Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?" (31) Đức
Giêsu đáp lại họ rằng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm
mới cần. (32) Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người
tội lỗi sám hối ăn năn.
Tranh luận về việc ăn chay
(33) Họ nói với Người: "Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện,
môn đệ người Pharisêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống !" (34) Đức
Giêsu trả lời: "Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn
chay, khi chàng rể còn ở với họ? (35) Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi; ngày đó,
họ mới ăn chay".
(36) Đức Giêsu còn kể cho họ nghe dụ ngôn này: "Chẳng ai xé áo mới
lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới
cũng không ăn với cũ.
(37) "Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ
làm nự bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. (38) Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu
mới. (39) Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói:
"Rượu cũ ngon hơn".
Chương 6:
Môn đệ bứt lúa ăn ngày sabát
(1) Vào ngày sabát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ
bứt lúa, vò trong tay mà ăn. (2) Nhưng có mấy người Pharisêu nói: "Tại sao
các ông làm điều không được phép làm ngày sabát?"
(3) Đức Giêsu trả lời: "Các ông chưa đọc chuyện này trong Sách à?
Vua Đavít đã làm gì khi vua và thuộc hạ đói bụng? (4) Vua vào nhà Thiên Chúa
lấy bánh tiến mà ăn và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn
mà thôi". (5) Rồi Người nói: "Con Người làm chủ ngày sabát ".
Đức Giêsu chữa người bại tay ngày sabát
Một ngày sabát khác, Đức Giêsu cũng vào hội đường và giảng dạy. Ở đó có
một người bị khô bại tay phải. (7) Các kinh sư và những người Pharisêu rình xem
Đức Giêsu có chữa người ấy trong ngày sabát không, để tìm được cớ tố cáo Người.
(8) Nhưng Người biết họ đang suy nghĩ như thế, nên bảo người bại tay: "Anh
chỗi dậy, ra đứng giữa đây !" Người ấy liền chỗi dậy và đứng đó. (9) Đức
Giêsu nói với họ: "Tôi xin hỏi các ông: ngày sabát, được phép làm điều
lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?" (10) Người rảo mắt nhìn họ
tất cả, rồi bảo người bại tay: "Anh giơ tay ra !" Anh ấy làm như vậy
và tay anh liền trở lại bình thường. (11) Nhưng họ thì giận điên lên, và bàn
nhau xem có làm gì được Đức Giêsu không.
Đức Giêsu tuyển chọn mười hai Tông Đồ
(12) Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã
thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. (13) Đến sáng, Người kêu các môn đệ
lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. (14) Đó là ông Simon mà Nguời gọi
là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông; sau đó là các ông Giacôbê, Gioan,
Philípphê, Batôlômêô, (15) Máthêu, Tôma, Giacôbê con ông Anphê, Simon biệt danh
là Quá Khích, (16) Giuđa con ông Giacôbê, và Giuđa Ítcariốt, người đã trở thành
kẻ phản bội.
Dân chúng kéo đến cùng Đức Giêsu
(17) Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất
bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền
Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđon (18) đến để nghe
Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu
cũng được chữa lành. (19) Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng
lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người.
Bài giảng khai mạc, Các mối phúc thật
(20) Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói:
"Phúc cho anh em là những kẻ
nghèo khó,
vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
(21) "Phúc cho anh em là
những kẻ bây giờ đang phải đói,
vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được
no lòng.
"Phúc cho anh em là những kẻ
bây giờ đang phải khóc,
vì anh em sẽ được vui cười.
(22) "Phúc cho anh em khi vì
Con Người mà bị nguời ta oán ghét,
khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên hư
đồ xấu xa.
(23) Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành
cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông
họ đối xử như thế.
Các mối hoạ
(24) "Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã
được phần an ủi của mình rồi.
(25) "Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì
các ngươi sẽ phải đói.
(26) "Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ
giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.
Yêu thương kẻ thù
(27) "Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy
yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, (28) hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa
anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. (29) Ai vả anh má bên này, thì hãy
giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo
trong. (30) Anh em muốn hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. (31)
Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.
(32) Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu?
Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. (33) Và nếu anh em làm
ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi
cũng làm như thế. (34) Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì
là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại
sòng phẳng. (35) Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà
chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao,
và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và
quân độc ác.
Phải có lòng nhân từ
(36) "Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em Đấng nhân từ. (37)
Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng
lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được
Thiên Chúa thứ tha. (38) Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người
ta sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo
anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng
đấu ấy".
Mù mà lại dắt mù. Cái rác và cái xà
(39) Đức Giêsu còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: "Mù mà lại dặt mù
được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? (40) Học trò không hơn thầy, có
học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. (41) Sao anh thấy cái rác trong con mắt
của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý
tới? (42) Sao anh lại có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi
lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái
xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả ! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi
trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em !
Cây nào trái ấy
(43) "Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây
nào sâu mà lại sinh quả tốt. (44) Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai,
làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho. (45) Người tốt thì lấy
ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng
xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra".
Phải thực hành lời Đức Giêsu dạy
(46) "Tại sao anh em gọi Thầy: "Lạy Chúa ! Lạy Chúa !",
mà anh em không làm điều Thầy dạy?
(47) "Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực
hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai. (48) Người ấy ví
được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá.
Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì
nhà đã xây vững chắc. (49) Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như
người xây nhà ngay mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay
và bị phá huỷ tan tành.
Chương 7:
Đức Giêsu chữa đầy tớ của một đại đội trưởng
(1) Sau khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giêsu vào
thành Caphácnaum. (2) Môt viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần
chết. Ông ta yêu quý người lắm. (3) Khi nghe đồn về Đức Giêsu, ông cho mấy kỳ
mục của người Dothái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông.
(4) Họ đến gặp Đức Giêsu và khẩn khoản nài xin Người rằng: "Thưa
Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho. (5) Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính
ông đã xây cất hội đường cho chúng ta. (6) Đức Giêsu liền đi với họ. Khi Người
còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói với
Người: "Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng
rước Ngài vào nhà tôi. (7) Cũng vì lý do ấy, tôi đã không nghĩ mình xứng đáng
đến gắp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh.
(8) Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền
tôi. Tôi bảo người này: "Đi !" là nó đi; bảo người kia: "Đến
!" là nó đến; và bảo người nô lệ của tôi: "Làm cái này !" là nó
làm". (9) Nghe vậy, Đức Giêsu thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám
đông đang theo Người rằng: "Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân
Ítraen, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế. (10) Về đến
nhà, những người đã được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn.
Đức Giêsu cho con trai một bà goá thành Nain sống
lại
(11) Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain, có các môn đệ và
một đám người rất đông cùng đi với Người. (12) Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành,
thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất,
và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có đám rất đông người trong thành cùng đi với
bà. (13) Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: "Bà đừng khóc nữa
!" (14) Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức
Giêsu nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy !" (15)
Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. (16)
Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Một vị ngôn sứ vĩ đại
đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người". (17)
Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận.
Câu hỏi của ông Gioan Tẩy Giả và câu trả lời của
Đức Giêsu
(18) Môn đệ của ông Gioan báo cho ông biết tất cả những việc ấy; ông
Gioan liền gọi hai người trong nhóm môn đệ lại, (19) sai họ đến hỏi Chúa rằng:
"Thầy có thật là đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai
khác?" (20) Khi đến gặp Đức Giêsu, hai người ấy nói: "Ông Gioan Tẩy
Giả sai chúng tôi đến hỏi Thầy: "Thầy có thật là "Đấng phải đến"
không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" (21) Chính giờ ấy, Đức
Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho
nhiều người mù được thấy. (22) Người trả lời hai người ấy rằng: "Các anh
cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy,
kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo được nghe tin mừng, (23) và phúc thay người nào không vấp ngã vì
tôi".
(24) Khi những người ông Gioan sai đến đã ra về, Đức Giêsu bắt đầu nói
với đám đông về ông Gioan rằng: "Anh em đi xem gì trong hoang địa? Một cây
sậy phất phơ trước gió chăng? (25) Hẳn là không ! Thế thì anh em đi xem gì ?
Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? Những kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa
thì ở trong cung trong điện. (26) Thế thì anh em đi xem gì? Một vị ngôn sứ
chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết: đây còn hơn cả ngôn sứ nữa !
(27) Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng:
Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước
mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến !
(28) "Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ,
không có ai cao trọng hơn ông Gioan; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên
Chúa còn cao trọng hơn ông. (29) Nghe ông giảng, toàn dân, kể cả những người
thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Công Chính và đã chịu phép rửa của
ông. (30) Còn những người Pharisêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định
của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông.
Đức Giêsu phán đoán về thế hệ của Người
(31) Vậy tôi phải ví người thế hệ này với ai? Họ giống ai? (32) Họ giống
như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói:
"Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc
than".
(33) Thật vậy, ông Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu,
thì các ông bảo: "Ông ta bị quỷ ám". (34) Con Người đến, cũng ăn cũng
uống như ai, thì các ông lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu
thuế và phường tội lỗi". (35) Nhưng Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái
mình biện minh cho".
Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến
Chúa nhiều
(36) Có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Đức
Giêsu đến nhà người Pharisêu ấy và vào bàn ăn. (37) Và kìa một phụ nữ vốn là
người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu,
liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. (38) Chị đứng đằng sau, sát
chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chí lấy tóc mình mà
lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
(39) Thấy vậy, ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu
quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình
là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi !" (40) Đức Giêsu lên tiếng bảo
ông: "Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông !" Ông ấy thưa:
"Dạ, xin Thầy cứ nói". (41) Đức Giêsu nói: "Một chủ nợ kia có
hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, môt người nợ năm chục. (42) Vì họ
không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai
người đó, ai mến chủ nhiều hơn". (43) Ông Simon đáp: "tôi thiết tưởng
là người đã được tha nhiều hơn". Đức Giêsu bảo: "Ông xét đúng
lắm".
(44) Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: "Ông
thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân
tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau.
(45) Ông đã chẳng hôn chào tôi được một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã
không ngừng hôn chân tôi. (46) Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị
ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. (47) Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội
của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai
được tha ít thì yêu mến ít". (48) Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ:
"Tội của chị đã được tha rồi". (49) Bấy giờ những người đồng bàn liền
nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được cả tội?" (50) Nhưng Đức
Giêsu nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình
an".
Chương 8:
Những người phụ nữ đi theo Đức Giêsu
(1) Sau đó, Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan
báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai (2) và mấy
người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria
Mácđala, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, (3) bà Gioanna, vợ ông Khuda
quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của
cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ.
Dụ ngôn người gieo giống
(4) Người ta tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến
cùng Đức Giêsu. Bấy giờ Người dùng dụ ngôn mà nói rằng:
(5) "Người gieo giống đi ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. (6) Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. (7) Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cùng mọc lên, làm nó chết nghẹt. (8) Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết qủa gấp trăm". Nói xong, Người hô lên rằng: "Ai có tai nghe thì nghe".
(5) "Người gieo giống đi ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. (6) Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. (7) Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cùng mọc lên, làm nó chết nghẹt. (8) Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết qủa gấp trăm". Nói xong, Người hô lên rằng: "Ai có tai nghe thì nghe".
Tại sao Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói
(9) Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. (10) Người đáp:
"Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; còn với kẻ
khác thì phải dùng dụ ngôn để chúng nhìn mà không nhìn, nghe mà không hiểu.
Giải nghĩa dụ ngôn người gieo giống
(11) "Đây là ý nghĩa dụ ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa. (12)
Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi
lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. (13) Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi
nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và trong
thời thử thách, họ bỏ cuộc. (14) Hạt giống rơi vào bụi gai: đó là những kẻ
nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái
lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. (15) Hạt
giống rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng
đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.
Lãnh nhận và truyền bá giáo huấn của Đức Giêsu thế
nào
(16) Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường,
nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng. (17) Vì chẳng có
gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại
không biết và không bị đưa ra ánh sáng. (18) Vậy hãy để ý tới cách thức anh em
nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là
có, cũng sẽ bị lấy mất".
Những ai thật sự thuộc gia đình của Đức Giêsu
(19) Mẹ và anh em Đức Giêsu đến gặp Người, mà không làm sao lại gần
được, vì dân chúng quá đông. (20) Họ báo cho Người biết: "Thưa Thầy, có mẹ
và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gắp Thầy". (21) Người đáp lại:
"Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra
thực hành".
Đức Giêsu dẹp yên biển động
(22) Một ngày nọ, Đức Giêsu xuống thuyền với các môn đệ. Người nói:
"Chúng ta sang bên kia Biển Hồ đi !" Rồi thầy trò ra khơi. (23) Đang
khi các ngài đi thuyền, thì Đức Giêsu thiếp ngũ. Một trận cuồng phong ập xuống
Biển Hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy. (24) Các môn đệ lại gần đánh thức
Người dậy và nói: "Thầy ơi, Thầy ! Chúng ta chết mất !" Người thức
dậy, ngăm đe sóng gió, sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay. (25) Người bảo
các ông: "Đức tin anh em ở đâu?" Các ông hoảng sợ, thán phục và nói
với nhau: "Người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió, và sóng gió phải
tuân lệnh?"
Đức Giêsu chữa người bị quỷ ám tại Ghêraxa
(26) Thầy trò ghé thuyền vào vùng đất của người Ghêraxa, đối diện với
miền Galilê. (27) Người vừa ra khỏi thuyền và đặt chân lên đất, thì có một
người dân trong thành bị quỷ ám ra đón Người. Từ lâu, anh ta không mặc quần áo,
không ở trong nhà, nhưng ở trong đám mồ mả.
(28) Thấy Đức Giêsu, anh la lên, sấp mình dưới chân Người, và lớn tiếng
nói rằng: "Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến
ông? Tôi xin ông đừng hành hạ tôi !" (29) Ấy là vì Đức Giêsu đã truyền cho
thần ô uế xuất khỏi người ấy. Thật vậy, đã nhiều lần quỷ bắt lấy anh ta, người
ta dùng xiềng xích gông cùm mà trói và giữ anh; nhưng anh bứt tung dây trói và
bị quỷ đưa vào những nơi hoang vắng. (30) Đức Giêsu hỏi anh: "Tên anh là
gì?" Anh thưa: "Đạo Binh", vì rất nhiều quỷ nhập vào anh. (31)
Lũ quỷ nài xin Người đừng truyền cho chúng rút xuống vực thẳm.
(32) Ở đó có một bầy heo khá đông đang ăn trên núi. Lũ quỷ nài xin Người
cho phép chúng nhập vào bầy heo kia, và Người cho phép. (33) Lũ quỷ xuất khỏi
người đó, nhập vào bầy heo. Cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống hồ và chết
ngộp hết.
(34) Thấy sự việc xảy ra, các người chăn heo bỏ chạy, loan tin trong
thành và thôn xóm. (35) Thiên hạ ra xem sự việc đã xảy ra. Họ đến cùng Đức
Giêsu và thấy kẻ đã được trừ quỷ đang ngồi dưới chân Đức Giêsu, ăn mặc hẳn hoi
và trí khôn tỉnh táo. Họ phát sợ. (36) Những người chứng kiến đã kể lại cho họ
nghe người bị quỷ ám được cứu chữa thế nào. (37) Bấy giờ đông đảo dân chúng
vùng Ghêraxa xin Người rời họ, vì họ sợ quá, nên Người xuống thuyền trở về.
(38) Kẻ đã được trừ quỷ xin được ở với Người. Nhưng Người bảo anh ta về
và nói: (39) "Anh cứ về nhà và kể lại mọi điều Thiên Chúa đã làm cho
anh". Anh ta ra đi, rao truyền cho cả thành biết mọi điều Đức Giêsu đã làm
cho anh.
Đức Giêsu chữa người đàn bà bị băng huyết và cho
con gái ông Giaia sống lại
(40) Khi Đức Giêsu trở về thì đám đông tiếp đón, vì ai ai cũng đợi chờ
Người. (41) Và kìa có một người tên là Giaia đi tới; ông là trưởng hội đường.
Ông sụp xuống dưới chân Đức Giêsu, nài xin Người vào nhà ông, (42) vì ông có
môt đứa con gái duy nhất độ mười hai tuổi, mà nó lại sắp chết. Trong khi Người
đi, có những đám đông chen lấn làm Người nghẹt thở.
(43) Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa
được. (44) Bà tiến đến phía sau Người và sờ vào tua áo của Người. Tức khắc, máu
ngừng chảy. (45) Đức Giêsu hỏi: "Ai là người đã sờ vào tôi?" Mọi
người đều chối, nên ông Phêrô nói: "Thưa Thấy, đám đông xô đẩy, chen lấn
Thầy đấy !" (46) Nhưng Đức Giêsu nói: "Có người đã đụng vào Thầy, vì
Thầy biết có một năng lực tự nơi thầy phát ra". (47) Người đàn bà thấy
mình không giữ kín được nữa, thì run rẩy đến phủ phục trước mặt Người, và loan
báo trước mặt toàn dân lý do tại sao bà đã đụng vào Đức Giêsu, và bà đã được
khỏi bệnh tức khắc như thế nào. (48) Đức Giêsu nói với bà ta: "Này con,
lòng tin của con đã cứu con. Con hãy đi bình an".
(49) Đức Giêsu còn đang nói, thì có người từ nhà ông trưởng hội đường
đến bảo ông: "Con gái ông chết rồi, đừng làm phiền Thầy nữa !" (50)
Nghe vậy, Đức Giêsu bảo ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin
thôi, là con gái ông sẽ được cứu". (51) Khi đến nhà, Người không cho ai
vào với mình, trừ ông Phêrô, ông Gioan, ông Giacôbê và cha mẹ của đứa bé. (52)
Mọi người đều đấm ngực khóc thương nó. Đức Giêsu nói: "Đừng khóc ! Con bé
có chết đâu, nó ngủ đấy !" (53) Họ chế nhạo Người, vì biết nó đã chết.
(54) Nhưng Người cầm lấy tay nó, lên tiếng gọi: "Này bé, chỗi dậy đi
!" (55) Hồn đứa bé trở lại, và nó đứng dậy ngay. Đức Giêsu bảo người ta
cho nó ăn. (56) Cha mẹ nó kinh ngạc. Và Người ra lệnh cho họ không được nói với
ai về việc đã xảy ra.
Chương 9:
Đức Giêsu sai mười hai Tông Đồ đi giảng
(1) Đức Giêsu tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và
quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. (2) Người sai các ông đi
rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. (3) Người nói: "Anh em
đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng
có hai áo. (4) Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và từ đó mà ra đi.
(5) Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi
chân để tỏ ý phản đối họ". (6) Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan
báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.
Vua Hêrôđê và Đức Giêsu
(7) Tiểu vương Hêrôđê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân
lắm. thật vậy, có kẻ nói: "Đó là ông Gioan từ cõi chết chỗi dậy". (8)
Kẻ khác nói: "Ông Êlia xuất hiện đấy !" Kẻ khác nữa lại nói: "Đó
là một ngôn sứ thời xưa sống lại". (9) Còn vua Hêrôđê thì nói: "Ông
Gioan, ta đây đã cho chém đầu rồi ! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những
chuyện như thế?" Rồi vua tìm cách thấy mặt Đức Giêsu.
Các Tông Đồ trở về. Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều
(10) Các Tông Đồ trở về thuật lại cho Đức Giêsu những việc các ông đã
làm. Người đem các ông đi riêng với mình, lui về thành kia gọi là Bétxaiđa.
(11) Đám đông dân chúng biết thế, liền đi theo Người. Người tiếp đón họ, nói
với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.
(12) Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giêsu thưa Người
rằng: "Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh
đấy, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang
vắng". (13) Đức Giêsu bảo: "Chính anh em hãy cho họ ăn". Các ông
đáp: "Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính
chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này". (14) Quả thật có tới
chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Anh em hãy cho họ
ngả lưng thành từng nhóm khoảng năm mươi người một". (15) Các môn đệ làm y
như vậy, và cho mọi người ngả lưng xuống. (16) Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm
cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc túng, bẻ ra và trao
cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. (17) Mọi người đều ăn, và ai nấy
được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của
Thiên Chúa
(18) Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với
Người, và Người hỏi các ông rằng: "Đám đông nói Thầy là ai?" (19) Các
ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông
Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại". (20)
Người lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô thưa:
"Thấy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". (21) Nhưng Người nghiêm giọng
truyền các ông không được nói điều ấy với ai.
Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất
(22) Người bảo rằng: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ
mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống
lại".
Điều kiện phải có để theo Đức Giêsu
(23) Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. (24) Quả vậy, ai muốn cứu mạng
sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được
mạng sống ấy. (25) Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay
là thiệt thân, thì nào có lợi gì? (26) Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi,
thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của
mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.
Triều đại Thiên Chúa đã gần đến
(27) "Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những
kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu biến đổi hình dạng
(28) Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu lên núi cầu
nguyện, đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê. (29) Đang lúc Người cầu
nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.
(30) Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia.
(31) Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp
hoàn thành tại Giêrusalem. (32) Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng
khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng
bên Người. (33) Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người
rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá ! Chúng con xin dựng ba cái
lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Môsê, và một cái cho ông Êlia". Ông
không biết mình đang nói gì. (34) Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao
phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. (35) Và từ đám
mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy
vâng nghe lời Người !" (36) Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình
Đức Giêsu. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không
kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong
(37) Hôm sau, khi Đức Giêsu và ba môn đệ ở trên núi xuống, có đám người
đông đảo tới đón Người. (38) Và kìa một người đàn ông từ trong đám đông kêu lên
rằng: "Thưa Thầy, tôi xin Thầy đoái nhìn đứa con trai tôi, vì tôi chỉ có
một mình cháu. (39) Thế mà quỷ nhập vào cháu, khiến cháu bỗng dưng la lên, vật
mình vật mẩy, sùi cả bọt mép, và khó lắm nó mới chịu rời cháu, bỏ cháu lại đó
mệt nhừ. (40) Tôi có xin các môn đệ Thầy trừ tên quỷ đó, nhưng các ông trừ
không được". (41) Đức Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin
và gian tà ! Tôi phải ở cùng các người và chịu đựng các người cho đến bao giờ
nữa? Ông đem cháu lại đây !" (42) Đứa trẻ đang tiến lại, thì quỷ vật nó
xuống và lay nó thật mạnh. Đức Giêsu quát mắng tên quỷ ô uế, chữa đứa trẻ, và
trao lại cho cha nó. (43) Mọi người đều kinh ngạc trước quyền năng cao cả của
Thiên Chúa.
Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai
Đang lúc mọi người còn bỡ ngỡ về tất cả các việc Đức Giêsu làm, Người
nói với các môn đệ: (44) "Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỷ những lời
sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời". (45) Nhưng các ông không
hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bị che khuất, đến nỗi các ông không
nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy.
Ai là người lớn nhất trong các môn đệ
(46) Các ông chợt suy nghĩ tự hỏi xem ai là người lớn nhất trong các
ông. (47) Đức Giêsu biết điều các ông đang suy nghĩ trong lòng, Người liền đem
một trẻ nhỏ đặt bên cạnh mình (48) và nói với các ông: "Ai tiếp đón một em
nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón
Đấng đã sai Thầy. Thật vậy ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy
là người lớn nhất".
Nhân danh Đức Giêsu mà trừ quỷ
(49) Ông Gioan lên tiếng nói: "Thưa Thầy, chúng con thấy có người
nhân danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không đi theo
Thầy cùng với chúng con". (50) Đức Giêsu bảo ông: "Đừng ngăn cản
người ta. Quả thật, ai không chống chúng ta là ủng hội chúng ta !".
IV. ĐỨC GIÊSU LÊN GIÊRUSALEM
Chương 9:
(tiếp theo)
Một làng miền Samari không đón tiếp Đức Giêsu
(51) Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi
lên Giêrusalem. (52) Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một
làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. (53) Nhưng dân làng không đón tiếp
Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. (54) Thấy thế, hai môn đệ Người là
ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con
khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?" (55) Nhưng Đức Giêsu
quay lại quở mắng các ông. (58) Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
Đức Giêsu đòi hỏi môn đệ phải bỏ mọi sự
(57) Thầy trò còn đang đi trên đường, thì có kẻ thưa Người rằng:
"Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo". (58) Người trả lời:
"Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa
đầu".
(59) Đức Giêsu nói với một người khác: "Anh hãy theo tôi !"
Người ấy thưa: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước
đã". (60) Đức Giêsu bảo: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh,
anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa".
(61) Một người khác nữa lại nói: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy,
nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã". (62) Đức Giêsu bảo:
"Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với
Nước Thiên Chúa".
Chương 10:
Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi giảng
(1) Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ
từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ
đến. (2) Người bảo các ông: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh
em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. (3) Anh em hãy ra đi. Này Thầy
sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. (4) Đừng mang theo túi tiền,
bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. (5) Vào bất cứ nhà nào,
trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này !" (6) Nếu ở đó, có ai đáng
hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ đến đậu trên người ấy; bằng không, thì
bình an đó sẽ quay về với anh em. (7) Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống
thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi
hết nhà nọ đến nhà kia. (8) Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì
cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. (9) Hãy chữa những người đau yếu trong
thành, và nói với họ: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông". (10)
Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng
trường mà nói: (11) "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi,
chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này:
Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần". (12) Thầy nói cho anh em hay: trong ngày
ấy, thành Xơđom còn được xử khoan hồng hơn thành đó".
(13) "Khốn cho ngươi, hỡi Khoradim ! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa !
Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các nguơi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì từ
lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi. (14) Vì thì, trong
cuộc Phán Xét, Tia và Xiđon sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. (15) Còn ngươi
nữa, hỡi Caphácnaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi
sẽ phải nhào xuống tận âm phủ !
(16) "Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước
từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.
Hãy mừng vì tên anh em được ghi trên trời
(17) Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: "Thưa Thầy, nghe đến
danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con". (18) Đức Giêsu bảo
các ông: "Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống. (19) Đây,
Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ
Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. (20) Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ
thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên
trời".
Chúa Cha mặc khải cho những người bé mọn
(21) Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và
nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu
kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải
cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha".
Chúa Cha và Chúa Con
(22) "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người
Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con,
và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho".
Đặc ân các môn đệ
(23) Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: "Phúc thay
mắt nào được thấy điều anh em thấy ! (24) Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết:
nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không
được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe".
Điều răn lớn
(25) Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người
rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia
nghiệp?" (26) Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế
nào?" (27) Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi và người thân
cận như chính mình". (28) Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông trả lời đúng
lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống".
Dụ ngôn người Samari tốt lành
(29) Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức
Giêsu rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi?" (30) Đức Giêsu đáp:
"Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ
cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống
nửa chết. (31) Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông
thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. (32) Rồi cũng thế, một thầy Lêvi
đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. (33) Nhưng một người
Samaria kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương.
(34) Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó
lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. (35)
Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn
sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiều, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn
lại bác". (36) Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người
thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?" (37) Người thông luật trả
lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy". Đức
Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy".
Hai chị em Mácta và Maria
(38) Trong khi Thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người
phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà. (39) Cô có người em gái tên là Maria. Cô
này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. (40) Còn cô Mácta thì tất bật
lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: "Thưa Thầy, em con để mình con phục
vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !" (41)
Chúa đáp: "Mácta ! Mácta ơi ! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá !
(42) Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ
không bị lấy đi".
Chương 11:
Kinh "Lạy Cha"
(1) Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong,
thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa thầy, xin dạy
chúng con cầu nguyện, cũng như ông gioan đã dạy môn đệ của ông". (2) Người
bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:
"Lạy Cha, xin làm cho danh
thánh Cha vinh hiển,
Triều Đại Cha mau đến,
(3) Xin Cha cho chúng con ngày
nào có lượng thực ngày ấy;
(4) Xin tha tội cho chúng con,
vì chính chúng con cũng tha
cho mọi người mắc lỗi với chúng
con,
và xin đừng để chúng con sa chước
cám dỗ".
Người bạn quấy rầy
(5) Người còn nói với các ông: "Ai trong anh em có một người bạn,
và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: "Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh,
(6) vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta
ăn cả"; (7) mà người kia từ trong nhà lại đáp: "Xin anh đừng quấy rầy
tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy
lấy bánh cho anh được". (8) Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không
dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những
gì anh cần, vì thể diện.
Cứ xin thì sẽ được
(9) "Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì
sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. (10) Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì
thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. (11) Ai trong anh em là một người cha, mà khi
con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó? (12) Hoặc nó xin trứng, mà lại
cho nó con bọ cạp? (13) Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái
mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho
những kẻ xin Người ?".
Đức Giêsu và quỷ vương Bêendêbun
(14) Rồi Đức Giêsu trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi,
thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. (15) Nhưng trong số đó có
mấy người lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỷ".
(16) Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. (17)
Nhưng Người biết tư tưởng của họ, nên nói: "Nước nào tự chia rẽ thì sẽ
điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia. (18) Nếu Xatan cũng tự chia rẽ chống lại
chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?...(19) Bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế
Bêendêbun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ
sẽ xét xử các ông. (20) Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì
quả là Triều đại Thiên chúa đã đến giữa các ông. (21) Khi một người mạnh được
vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn.
(22) Nhưng nếu có người mạnh hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước
lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.
Không theo Đức Giêsu là chống lại Người
(23) "Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi
thu góp là phân tán.
Quỷ phản công
(24) "Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những
nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói: "Ta sẽ trở
về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi". (25) Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét
tước, dọn dẹp hẳn hoi. (26) Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và
chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước".
Thế nào là hạnh phúc thực sự
(27) Khi Đức Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ
lên tiếng thưa với Người: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú
mớn ! (28) Nhưng Người đáp lại: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng
nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa".
Dấu lạ ngôn sứ Giôna
(29) Khi đám đông tụ họp đông đảo, Đức Giêsu bắt đầu nói: "Thế hệ
này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu
lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna. (30) quả thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho
dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này
như vậy. (31) Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng phương Nam sẽ đứng lên cùng với
những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái
đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salômôn; mà đây thì còn hơn vua Salômon
nữa. (32) Trong cuộc Phán Xét, dân thành Nivivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này
và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng; mà đây
thì còn hơn ông Giôna nữa.
Hai lời nói về đèn
(33) Chẳng ai có đốt đèn lên rồi đặt vào chỗ khuất hoặc dưới cái thùng,
nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.
(34) Đèn của thân thể là con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn
thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt anh xấu, thì thân anh cũng tối. (35) Vậy hãy
coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối. (36) Nếu toàn thân anh sáng,
không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đền toả sáng chiếu
soi anh".
Đức Giêsu khiển trách các người Pharisêu và các nhà
thông luật
(37) Đức Giêsu đang nói, thì có một ông Pharisêu mời Người đến nhà dùng
bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. (38) Thấy vậy, ông Pharisêu lấy làm lạ vì
trước tiên Người không rửa tay trước bữa ăn. (39) Nhưng Chúa nói với ông ấy
rằng: "Thật, nhóm Pharisêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người
rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.
(40) Đồ ngốc ! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao?
(41) Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên
trong sạch cho các người. (42) Khốn cho các người, hỡi các người Pharisêu ! Các
người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ
công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Phải làm các điều này mà không được bỏ
qua các điều kia. (43) Khốn cho các người, hỡi các người Pharisêu ! Các người
thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công
cộng. (44) Khốn cho các người ! Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người
ta giẫm lên mà không hay".
(45) Một người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói: "Thưa
Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa !" (46) Đức Giêsu nói:
"Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật ! Các người chất trên
vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một
ngón tay cũng không động vào.
(47) "Khốn cho các người ! Các người xây lăng cho các ngôn sứ,
nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy ! (48) Như vậy, các người vừa
chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị
ấy, còn các người thì xây lăng.
(49) "Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán : "Ta sẽ
sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người
kia. (50) Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợi máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ
tạo thiên lập địa, (51) từ máu ông Aben đến máu ông Dacaria, người đã bị giết
giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị
đòi nợ máu.
(52) "Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật ! Các người đã
cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết, các người đã không vào, mà những kẻ muốn
vào, các người lại ngăn cản".
(53) Khi Đức Giêsu ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pharisêu bắt đầu
căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, (54) gài bẫy để xem có
bắt được Người nói điều gì sai chăng.
Chương 12:
Hãy nói công khai và đừng sợ
(1) Trong lúc ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau.
Bấy giờ Đức Giêsu bắt đầu nói, trước hết là với các môn đệ: "Anh em phải
coi chùng men Pharisêu, tức là thói đạo đức giả. (2) Không có gì che giấu mà sẽ
không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. (3) Vì thế, tất
cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và điều anh em
rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.
(4) "Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng
sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. (5) Thầy sẽ chỉ
cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả
ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy. (6) Năm con
chim sẻ chỉ bán được hai xu phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên
trước mặt Thiên Chúa. (7) Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi.
Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẽ.
(8) "Thầy nói cho anh em biết: phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt
thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước các thiên thần của
Thiên Chúa. (9) Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước các
thiên thần của Thiên Chúa.
(10) "Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai
nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.
(11) "Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những
người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm
sao, hoặc phải nói gì, (12) vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em
biết những điều phải nói".
Đừng thu tích của cải cho mình
(13) Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy,
xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi". (14) Người đáp: "Này
anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?"
(15) Và Người nói với họ: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi
thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của
cải mà được bảo đảm đâu".
(16) Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: "Có một nhà phú hộ kia,
ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, (17) mới nghĩ bụng rằng: "Mình phải làm gì
đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu !" (18) Rồi ông ta tự bảo:
"Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi
tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. (19) Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng:
hồn ta hỡi, mình bây giời ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi,
cứ ăn uống vui chơi cho đã !" (20) Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: "Đồ
ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn
đó sẽ vê tay ai?" (21) Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo
làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó".
Tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng
(22) Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Vì vậy, Thầy bảo cho anh
em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì
mà mặc; (23) vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. (24) Hãy
nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có
lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết
bao ! (25) Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm
được một vài gang không? (26) Vậy, việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được,
thì anh em lo lắng về những việc khác làm gì? (27) Hãy nhìn hoa huệ mà suy: làm
sao chúng không kéo sợi, không dệt vải, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay
cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy.
(28) Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn
mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin ! (29) Phần
anh em, đừng lo tìm cho có gì để ăn, có gì để uống, và đừng băn khoăn. (30) Vì
tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em
thừa biết anh em cần những thứ đó. (31) Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các
thứ kia, Người sẽ thêm cho.
(32) "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban
Nước của Người cho anh em.
Bán của cải đi mà bố thí
(33) "Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền
chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm
cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. (34) Vì kho tàng của anh em ở
đâu, thì lòng anh em cũng ở đó.
"Phải sẵn sàng luôn"
(35) "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. (36) Hãy làm
như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở
ngay. (37) Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc
cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên
từng người mà phục vụ. (38) Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn
thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. (39) Anh em hãy biết điều
này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách
nhà mình đâu. (40) Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em
không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
(41) Bấy giờ ông Phêrô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho
chúng con hay cho tất cả mọi người?" (42) Chúa đáp: "Vậy thì ai là
người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người
ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? (43) Khi chủ về mà thấy đầy tớ
ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. (44) Thầy bảo thật anh em,
ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. (45) Nhưng nếu người đầy
tớ ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới về", và bắt đầu đánh đập tôi
trai tớ gái và chè chén say sưa, (46) chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn
không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số
phận với những tên thất tín.
(47) "Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc
không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. (48) Còn kẻ không biết ý chủ mà làm
những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi
nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
Thái độ của Đức Giêsu trước cuộc Thương Khó
(49) "Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải
chi lửa ấy đã bùng lên ! (50) Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy
khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !
Thầy đến để gây chia rẽ
(51) "Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao?
Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. (52) Vì
từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai
chống lại ba. (53) Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống
lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại me; mẹ chồng chống lại nàng
dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng".
Nhận xét thời đại
(54) Đức Giêsu cũng nói với đám đông rằng: "Khi các người thấy mây
kéo lên ở phía tây, các người nói ngay: "Mưa đến nơi rồi", và xảy ra
đúng như vậy. (55) Khi thấy gió nồm thổi, các người nói: "Trời sẽ oi
bức", và xảy ra đúng như vậy. (56) Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất
trời, thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không
biết nhận xét?
(57) "Sao các người không tự mình xét xem cái gì là phải? (58) Thật
vậy, khi anh đi cùng đối phương ra toà, thì dọc đường hãy có gắng giải quyết
với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh
cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục. (59) Tôi bảo cho anh
biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẽm cuối cùng".
Chương 13:
Nếu không sám hối, thì sẽ chết hết
(1) Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những
người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật
họ đang dâng. (2) Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Galilê
đó có tội lỗi hơn hết mọi người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy
sao? (3) Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không
sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. (4) Cũng như mười tám người kia
bị tháp Silôa đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng
hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? (5) Tôi nói cho các ông biết,
không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ
chết hết y như vậy".
Dụ ngôn cây vả không ra trái
(6) Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng
trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, (7) nên bảo người
làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không
thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?" (8) Nhưng người làm vườn
đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh,
và bón phân cho nó. (9) May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt
nó đi".
Đức Giêsu chữa một phụ nữ còng lưng ngày sabát
(10) Ngày sabát kia, Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường. (11) Ở đó, có
một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà
không thể nào đứng thẳng lên được. (12) Trong thấy bà, Đức Giêsu gọi lại và
bảo: "Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền !" (13) Rồi Người
đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.
(14) Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày
sabát. Ông lên tiếng nói với đám đông rằng: "Đã có sáu ngày phải làm việc,
thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sabát !" (15)
Chúa đáp: "Những kẻ đạo đức giả kia ! Thế ngày sabát, ai trong các người
lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước? (16) Còn bà này là con
cháu ông Ápraham, bị Xatan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại
không được cởi xiềng xích đó trong ngày sabát sao?" (17) Nghe Người nói
thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì
vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện.
Dụ ngôn hạt cải
(18) Vậy Người nói: "Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví
Nước ấy với cái gì? (19) Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người đó
lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên
cành được".
Dụ ngôn nắm men trong bột
(20) Người lại nói: "Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì? (21)
Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến
khi tất cả bột dậy men".
Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Dothái bất trung
và kêu mời dân ngoại
(22) Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và
làng mạc mà giảng dạy. (23) Có kẻ hỏi Người: "Thưa Ngài, những người được
cứu thoát thì ít, có phải không?" Người bảo họ: (24) "Hãy chiến đấu để
qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách
vào mà không thể được.
(25) "Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn
đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: "Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào
!", thì ông sẽ bảo anh em: "Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ
đâu đến !" (26) Bấy giờ anh em mới nói: "Chúng tôi đã từng được ăn
uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của
chúng tôi". (27) Nhưng ông sẽ đáp với anh em: "Ta không biết các anh
từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính
!".
(28) "Ở đó anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông
Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa,
còn mình lại bị đuổi ra ngoài. (29) Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc
trong Nước Thiên Chúa
(30) "Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ
đứng đầu sẽ xuống hàng chót".
Con cáo già Hêrôđê
(31) Cũng vào giờ ấy, có mấy người Pharisêu đến thưa Đức Giêsu rằng:
"Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông !" (32)
Người bảo họ: "Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này: "Hôm nay và
ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. (33) Tuy
nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà
chết ngoài thành Giêrusalem thì không được.
Đức Giêsu than trách thành Giêrusalem
(34) "Giêrusalem, Giêrusalem ! Người giết các ngôn sứ và ném đá
những kẻ được sai đến cùng ngươi ! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi
lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các người không chịu. (35) Thì này,
nhà các người sẽ bị bỏ mặc cho các người. Mà Ta nói cho các người hay: các
người sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các người nói:
Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa !
Chương 14:
Ngày sabát Đức Giêsu chữa người mắc bệnh phù thũng
(1) Một ngày sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu
để dùng bữa: họ cố dò xét Người. (2) Và kìa trước mặt Đức Giêsu, có một người
mắc bệnh phù thũng. (3) Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những
người Pharisêu: "Có được phép chữa bệnh ngày sabát hay không?" (4)
Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về. (5) Rồi Người
nói với họ: "Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống
giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sabát?" (6) Và họ không thể
đáp lại những lời đó.
"Hãy ngồi chỗ cuối"
(7) Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên nói với
họ dụ ngôn này: (8) "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ
nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, (9) và rồi người
đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường
chỗ cho vị này". Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. (10)
Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh
phải đến nói: "Xin mời ông bạn lên trên cho". Thế là anh sẽ được vinh
dự trước mặt mọi người đồng bàn". (11) Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ
xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên".
"Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo
khó"
(12) Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi
khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng
giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. (13)
Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt,
đui mù. (14) Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ
được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại".
Dụ ngôn khách được mời xin kiếu
(15) Nghe vậy, một trong những kẻ đồng bàn nói với Đức Giêsu: "Phúc
thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa !" (16) Người đáp: "Một
người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. (17) Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ
đi thưa với quan khách rằng: "Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn". (18)
Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: "Tôi mới
mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu". (19) Người khác
nói: "Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu". (20)
Người khác nói: "Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được".
(21) Đầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn
thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng: "Mau ra các nơi công cộng và đường phố
trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây".
(22) Đầy tớ nói: "Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn
chỗ". (23) Ông chủ bảo người đầy tớ: "Ra các nẻo đường, dọc theo bờ
rào bờ giậu, ép người ta vào đầy nhà cho ta. (24) Tôi nói cho các anh biết:
Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi".
Vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu
(25) Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo
họ: (26) "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em,
và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. (27) Ai không vác
thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được".
Từ bỏ hết những gì mình có
(28) Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại
không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? (29)
Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy
sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: (30) "Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có
sức làm cho xong việc". (31) Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua
khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn
quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? (32)
Nếu không đử sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu
hoà. (33) Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không
thể làm môn đệ tôi được".
Muối mà nhạt đi...
(34) "Vậy muối là một cái gì tốt. Nhưng chính muối mà lại nhạt đi,
thì lấy gì ướp nó cho mặn lại? (35) Nó chẳng còn thích hợp để bón đất, hay trộn
phân nữa, nên người ta quăng nó ra ngoài. Ai có tai nghe, thì hãy nghe".
Chương 15:
Ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa
(1) Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần
Đức Giêsu mà nghe Người. (2) Còn những người thuôc phái Pharisêu và các kinh sư
thì lẩm bẩm: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng".
(3) Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:
Dụ ngôn con chiên bị mất
(4) "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một
con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ
được con chiên bị mất? (5) Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. (6) Về
đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với
tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó". (7) Vậy,
tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người
tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần
phải sám hối ăn năn.
Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất
(8) "Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất
một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? (9) Tìm
được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi,
vì tôi đã tìm đuợc đồng quan tôi đã đánh mất". (10) Cũng thế, tôi nói cho
các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội
lỗi ăn năn sám hối".
Dụ ngôn người cha nhân hậu
(11) Rồi Đức Giêsu nói tiếp: "Một người kia có hai con trai. (12)
Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con
được hưởng". Và người cha đã chia của cải cho hai con. (13) Ít ngày sau,
người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng
đãng, phung phí tài sản của mình.
(14) "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy
một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, (15) nên phải
đi ở cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. (16)
Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho.
(17) Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao nhiêu người làm công cho
cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! (18) Thôi, ta đứng lên,
đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và
với cha, (19) chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm
công cho cha vậy". (20) Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
"Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng
thương, chạy ra ôm chồm anh ta và hôn lấy hôn để. (21) Bấy giời người con nói
rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi
là con cha nữa..." (22) Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng:
"Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào
chân cậu, (23) Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng
! (24) Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy".
Và họ bắt đầu ăn mừng.
(25) "Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về
gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, (26) liền gọi một người đầy tớ ra
mà hỏi xem có chuyện gì. (27) Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu
đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khoẻ". (28) Người anh cả
liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. (29) Cậu trả lời
cha: "Cha ơi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái
lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với
bạn bè. (30) Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với
bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !"
(31) "Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng
ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. (32) Nhưng chúng ta phải ăn
mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm
thấy".
Chương 16:
Dụ ngôn người quản gia bất lương
(1) Đức Giêsu còn nói với các môn đệ rằng: "Một nhà phú hộ kia có
một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà
ông. (2) Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: "Tôi nghe người ta nói gì về anh
đó? Anh hãy phúc trình về công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không được
làm quản gia nữa !" (3) Người quản gia liền nghĩ bụng: "Mình sẽ làm
gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi,
ăn mày thì hổ ngươi. (4) Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản
gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ !".
(5) "Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ
nhất: "Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?" (6) Người ấy đáp: "Một
trăm thùng dầu ôliu". Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây,
ngồi xuống mau, viết năm chục thôi". (7) Rồi anh ta hỏi người khác:
"Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?" Người ấy đáp: "Một ngàn thùng
lúa". Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám
trăm thôi".
(8) "Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo.
Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người
đồng loại.
Trung tín trong việc sử dụng tiền của
(9) "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất
chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào
nơi ở vĩnh cửu. (10) Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong
việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn.
(11) Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai
sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? (12) Và nếu anh em không
trung tín trong việc sử dụng của cải người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của
cải dành riêng cho anh em?
(13) "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét
chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em
không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được".
Đức Giêsu khiển trách người Pharisêu ham tiền
(14) Người Pharisêu vốn vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì
cười nhạo Đức Giêsu. (15) Người bảo họ: "Các ông là những kẻ làm ra bộ
công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì
điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.
Dùng sức mạnh mà vào Nước Thiên Chúa
(16) "Cho đến thời ông Gioan, thì có Luật và các ngôn sứ; còn từ
thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh
mà vào.
Lề Luật sẽ không bao giờ ra vô hiệu
(17) "Trời đất qua đi còn dễ hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất.
Vấn đề ly dị
(18) "Bất cứ ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình; và
ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.
Dụ ngôn ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó
(19) "Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày
yến tiệc linh đình. (20) Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy
mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, (21) thèm được những thứ trên bàn ăn của ông
ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
(22) Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
(23) "Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên,
thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. (24)
Bấy giờ ông ta kêu lên: "Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai
anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con
bị lửa thiêu đốt khổ lắm !" (25) Ông Ápraham đáp: "Con ơi, hãy nhớ
lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời
chịu toàn những bất hạnh. Bấy giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải
chịu khốn khổ. (26) Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm
lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên
chúng ta đây cũng không được".
(27) "Ông nhà giàu nói: "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ
sai anh Ladarô đến nhà cha con, (28) vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin
sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này !" (29)
Ông Ápraham đáp: "Chúng đã có ông Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe
lời các vị đó". (30) Ông nhà giàu nói: "Thưa tổ phụ Ápraham, họ không
chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám
hối". (31) Ông Ápraham đáp: "Ông Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng
chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu".
Chương 17:
Cớ vấp ngã
(1) Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Không thể không có những cớ
làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã ! (2)
Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô nó xuống biển còn lợi cho nó hơn là để nó
làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. (3) Anh em hãy đề phòng !
Sửa lỗi anh em
"Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh, thì hãy khiển trách nó;
nếu nó hối hận, thì hãy tha cho nó. (4) Dù có xúc phạm đến anh một ngày đến bảy
lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh; 'Tôi hối hận', thì anh cũng phải tha cho
nó".
Sức mạnh của lòng tin
(5) Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, xin thêm lòng
tin cho chúng con". (6) Chúa đáp: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng
hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới
biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em.
Phục vụ cách khiêm tốn
(7) "Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà
khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi", chứ không
bảo: "Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi
anh hãy ăn uống sau !"? (9) Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã
làm theo lệnh truyền sao? (10) Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những
gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng
tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi".
Mười người phong hủi
(11) Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền
Samaria và Galilê. (12) Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi
đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa (13) và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu,
xin dủ lòng thương chúng tôi !" (14) Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: "Hãy
đi trình diện với các tư tế". Đang khi đi thì họ đã được sạch. (15) Một
người trong bọn, thấy mặt được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh
Thiên Chúa. (16) Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là
người Samari. (17) Đức Giêsu mới nói: "Không phải cả mười người đều được
sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? (18) Sao không thấy họ trở lại tôn vinh
Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" (19) Rồi Người nói với anh
ta: "Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh".
"Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các
ông"
(20) Người Pharisêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến.
Người trả lời: "Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan
sát được. (21) Và người ta sẽ không nói: "Ở đây này !" hay "Ở
kia kìa !", vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông".
Ngày của Con Người
(22) Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Sẽ đến thời anh em mong ước
được thấy một trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy.
(23) Người ta sẽ bảo anh em: "Người ở kia kìa !" hay "Người ở
đây này !" Anh em đừng đi, đừng chạy theo. (24) Vì ánh chớp chói loà chiếu
sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như
vậy trong ngày của Người. (25) Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và
bị thế hệ này loại bỏ.
(26) "Và cũng như thời ông Nôê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì
trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. (27) Thiên hạ
ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu, và nạn hồng thủ
ập tới, tiêu diệt tất cả. (28) Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông
Lót, thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. (29) Nhưng ngày ông Lót ra
khỏi Xơđom, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trờ đổ xuống tiêu diệt
tất cả. (39) Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải.
(31) "Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng
xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. (32) Hãy nhớ chuyện
vợ ông Lót. (33) Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất
mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống. (34) Thầy nói cho anh em biết:
đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn
người kia bị bỏ lại. (35) Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một
người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. (36) Hai người đàn ông đang ở
ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại". (37)
Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giêsu: Thưa Thầy, ở đâu vậy?" Người nói với
các ông: "Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó".
Chương 18:
Dụ ngôn quan toà bất chính và bà goá quấy rầy
(1) Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu
nguyện luôn, không được nản chí. (2) Người nói: "Trong thành kia, có một
ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. (3)
Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông:
"Xin ngài bênh vực tôi chống lại kẻ kiện tôi". (4) Một thời gian khá
lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng ông ta nghĩ bụng: "Dầu rằng ta chẳng
kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, (5) nhưng mụ goá này quấy rầy
mãi, thì ta bênh vực mụ cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nữa
chăng?"
(6) Rồi Chúa nói: "Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó ! (7)
Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày
đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn? (8) Thầy nói cho anh em biết,
Người sẽ mau chóng bênh vực họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn
thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?
Dụ Ngôn người Pharisêu và người thu thuế
(9) Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là
công chính mà khinh chê người khác: (10) "Có hai người lên đền thờ cầu
nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. (11)
Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin
tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc
như tên thu thuế kia. (12) Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một
phần mười thu nhập của con". (13) Còn người thu thuế thì đứng đàng xa,
thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:
"Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi". (14) Tôi nói cho
các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính
rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai
hạ mình xuống sẽ được tôn lên".
Đức Giêsu và các trẻ em
(15) Người ta còn đem cả trẻ thơ đến với Đức Giêsu, để Người chạm tay
vào chúng. Thấy vậy, các môn đệ trách mắng họ. (16) Nhưng Đức Giêsu gọi chúng
lại mà nói: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên
Chúa thuộc về những ai giống như chúng. (17) Thầy bảo thật anh em: Ai không đón
nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào".
Người thủ lãnh giàu có
(18) Có một thủ lãnh hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải
làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (19) Đức Giêsu đáp:
"Sao ông nói tôi nhân lành? Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên
Chúa. (20) Hẳn ông biết các điều răn: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm
cắp, chớ làm chứng gian, hãy thảo kính cha mẹ". (21) Ông ta nói: "Tất
cả những việc đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ". (22) Nghe vậy, Đức Giêsu
bảo ông: "Ông chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì ông có
mà phân phát cho người nghèo, ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến
theo tôi". (23) Nghe vậy, ông ta buồn lắm, vì ông rất giàu.
Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa
(24) Đức Giêsu nhìn ông ta và nói: "Những người có của thì khó vào
Nước Thiên Chúa biết bao ! (25) Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn
người giàu vào Nước Thiên Chúa". (26) Những người nghe Đức Giêsu nói liền
hỏi: "Thế thì ai có thể được cứu?" (27) Người đáp: "Những gì
không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên
Chúa".
Phần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Đức Giêsu
(28) Ông Phêrô thưa: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ
những gì là của mình mà theo Thầy". (29) Người đáp: "Thầy bảo thật
anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên
Chúa, (30) mà lại không được gấp bội ở thời này, và không được sự sống vĩnh cửu
ở đời sau".
Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ ba
(31) Đức Giêsu đem riêng Nhóm Mười Hai ra và nói với các ông: "Này
chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ
được hoàn tất. (32) Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng,
nhục mạ, khạc nhổ. (33) Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba
Người sẽ sống lại". (34) Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông,
lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói.
Đức Giêsu chữa người mù tại Giêrikhô
(35) Khi Đức Giêsu gần đến Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở
vệ đường. (36) Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. (37) Họ
báo cho anh biết là Đức Giêsu Nadarét đang đi qua đó. (38) Anh liền kêu lên
rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi !" (39)
Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn tiếng:
"Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi !" (40) Đức Giêsu dừng
lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đền gần, Người hỏi: (41) "Anh muốn
tôi làm gì cho anh ?" Anh ta đáp: "Lạy Ngài, xin cho tôi được
thấy". (42) Đức Giêsu nói: "Anh hãy thấy đi ! Lòng tin của anh đã cứu
anh". (43) Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn
vinh Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
Chương 19:
Ông Dakêu
(1) Sau khi vào Giêrikhô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. (2) Và
kìa, có một người tên là Dakêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người
giàu có. (3) Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được,
vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. (4) Ông liền chạy tới phía trước, leo
lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. (5) Khi Đức Giêsu
tới chỗi ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Dakêu, xuống mau
đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !" (6) Ông vội vàng tụt xuống, và
mừng rỡ đón rước Người. (7) Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: "Nhà
người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !" (8) Còn ông Dakêu thì đứng mà thưa
với Chúa rằng: "Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người
nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn". (9)
Đức Giêsu nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi
người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham. (10) Vì Con Người đến để tìm và cứu
những gì đã mất".
Dụ ngôn mười yến bạc
(11) Khi người ta đang nghe những điều ấy, thì Đức Giêsu lại kể thêm một
dụ ngôn, vì Người đang ở gần Giêrusalem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa
sắp xuất hiện đến nơi rồi. (12) Vậy Người nói: "Có một người quý tộc kia
trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. (13) Ông gọi mười nguời
trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười yến bạc và nói với họ: "Hãy
lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến". (14) Nhưng đồng bào ông ghét ông,
nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: "Chúng tôi không muốn ông
này làm vua chúng tôi".
(15) "Sau khi lãnh nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền
gọi những đầy tớ ông đã giao bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao
nhiêu. (16) Người thứ nhất đến trình: "Thưa ngài, yến bạc của ngài đã sinh
lợi được mười yến". (17) Ông bảo người ấy: "Khá lắm, hỡi người đấy tớ
tài giỏi ! Vì anh đã trung thành trong viêc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị
mười thành". (18) Người thứ hai đến trình: "Thưa ngài, yến bạc của
ngài đã sinh được năm yến". (19) Ông cũng bảo người ấy: "Anh cũng
vậy, anh hãy cai trị năm thành".
(20) Rồi nguời thứ ba đến trình: "Thưa ngài, yến bạc của ngài đây,
tôi đã bọc khăn giữ kỹ. (21) Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái
không gửi, gặt cái không gieo". (22) Ông nói: "Hỡi tên đầy tớ tồi tệ
! Ta cứ lời miệng ngươi mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người khắc nghiệt, đòi
cái không gửi, gặt cái không gieo. (23) Thế sao ngươi không gửi bạc của ta vào
ngân hàng? Và khi ta đến, ta sẽ rút ra được cả vốn lẫn lời !" (24) Rồi ông
bảo những người đứng đó: "Lấy lại yến bạc nó giữ mà đưa cho người đã có
mười yến". (25) Họ thưa ông: "Thưa ngài, anh ấy có mười yến rồi
!" (26) "Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho
thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi".
(27) "Còn bọn thù địch của ta kia, những người không muốn ta làm
vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt ta".
V. ĐỨC GIÊSU RAO GIẢNG TẠI GIÊRUSALEM
Chương 19:
(tiếp theo)
Đức Giêsu vào Giêrusalem với tư cách Mêsia
(28) Đức Giêsu nói những lời ấy xong, Người đi đầu, tiến lên Giêrusalem.
(29) Khi đến gần làng Bếtphaghê, bên triền núi gọi là Ôliu. Người sai hai môn
đệ và bảo: (30) "Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một
con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và dắt nó
đi. (31) Và nếu có ai hỏi: "Tại sao các anh tháo lừa người ta ra, thì cứ
nói: "Chúa cần đến nó !" (32) Hai người được sai ấy ra đi và thấy y
như Người đã nói. (33) Các ông đang tháo dây lừa, thì những người chủ con lừa
nói với các ông: "Tại sao các anh lại tháo con lừa ra?" (34) Hai ông
đáp: "Chúa cần đến nó".
(35) Các ông dắt lừa về cho Đức Giêsu, rồi lấy áo choàng của mình phủ
trên lưng lừa, và đặt Đức Giêsu lên. (36) Người tới đâu, người ta cũng lấy áo
mình trải xuống đường. (37) Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ôliu, tất cả
đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã
được thấy. (38) Họ hô lên:
Chúng tụng Đức Vua,
Đấng ngự đến nhân danh Chúa !
Bình an trên cõi trời cao,
vinh quang trên các tầng trời !
Đức Giêsu tán thành việc các môn đệ hoan hô Người
(39) Trong đám đông, có vài người thuộc nhóm Pharisêu nói với Đức Giêsu:
"Thưa Thầy, Thầy quở trách môn đệ Thầy đi chứ !" (40) Người đáp:
"Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì sỏi đã cũng sẽ kêu lên !
Đức Giêsu thương tiếc thành Giêrusalem
(41) Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Đức Giêsu khóc thương
(42) mà nói: "Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại
bình an cho ngươi ! "Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi
không thấy được. (43) Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh,
bao vây và công hãm ngươi tư bề. (44) Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở
giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận
biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm".
Đức Giêsu đuổi những người đang buôn bán trong Đền
Thờ
(45) Đức Giêsu vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuôi những kẻ đang buôn bán
(46) và nói với họ: "Đã có lời chép rằng: "Nhà Ta sẽ là nhà cầu
nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp !"
Đức Giêsu giảng dạy tại Đền Thờ
(47) Hằng ngày, Người giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư
tìm cách giết Người, cả các thân hào trong dân cũng vậy. Nhưng họ không biết
phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người.
Chương 20:
Câu hỏi về quyền bính của Đức Giêsu
(1) Một hôm, đang khi Đức Giêsu giảng dạy cho dân trong Đền Thờ và loan
báo Tin Mừng, thì các thượng tế và kinh sư cùng các kỳ mục kéo đến (2) và nói
với Người rằng: "Xin ông cho chúng tôi biết: ông lấy quyền nào mà làm các
điều ấy? Hay ai là người đã cho ông quyền ấy?" (3) Đức Giêsu đáp:
"Tôi cũng vậy, tôi hỏi các ông một điều, xin nói cho tôi biết: (4) phép
rửa của ông Gioan là do Trời hay do người ta?" (5) Họ liền bàn tính với
nhau: "Nếu mình nói: "Do Trời", thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế
sao các ông lại không tin ông ấy?" (6) Còn nếu mình nói: "Do người
ta", thì toàn dân sẽ ném đá mình, vì họ xác tín rằng ông Gioan là một Ngôn
Sứ". (7) Họ mới trả lời là họ không biết do đâu. (8) Đức Giêsu liền bảo
họ: "Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà
làm các điều ấy".
Dụ ngôn những tá điền sát nhân
(9) Rồi Đức Giêsu bắt đầu kể cho dân nghe dụ ngôn này: "Có người
kia trồng được một vườn nho và cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa một thời
gian khá lâu.
(10) "Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để chúng nộp
hoa lợi vườn nho cho anh đem về. Nhưng bọn tá điền đuổi anh ta về tay không sau
khi đánh đập anh ta. (11) Ông lại sai thêm một đầy tớ khác, nhưng họ cũng đưổi
anh này về tay không sau khi đánh đập và hạ nhục anh. (12) Ông còn sai thêm một
người thứ ba, nhưng cả anh này, họ cũng quăng ra ngoài sau khi đánh trọng
thương. (13) Ông chủ vuờn nho mới nói: "Ta phải làm gì đây? Ta sẽ phái
người con yêu dấu của ta, biết đâu chúng sẽ nể con ta". (14) Nhưng vừa
thấy cậu, bọn tá điền liền bàn nhau: "Đứa thừa tự đây rồi ! Ta giết quách
nó đi, rồi gia tài sẽ về tay ta". (15) Thế là chúng quăng cậu ra bên ngoài
vườn nho, rồi giết đi.
Vậy ông chủ vườn nho sẽ làm gì chúng? (16) Ông sẽ đến tru diệt các tá
điền ấy, rồi giao vườn nho cho người khác". Nghe vậy, họ nói: "Mong
đừng có chuyện ấy !" (17) Nhưng Đức Giêsu đưa mắt nhìn họ và nói:
"Vậy câu Kinh Thánh này có nghĩa gì:
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ,
lại trở nên tảng đá góc tường?
(18) Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai,
sẽ làm người ấy nát thịt".
(19) Ngay giờ đó, các kinh sư và thượng tế tìm cách tra tay bắt Đức
Giêsu, nhưng lại sợ dân. Quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ
ngôn ấy.
Nộp thuế cho Xêda
(20) Họ rình rập và sai một số người giả bộ làm người công chính đến dò
la, mong bắt quả tang Đức Giêsu lỡ lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm
quyền là tổng trấn. (21) Chúng hỏi Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi
biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật
mà dạy đường lối của Thiên Chúa. (22) Vậy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho
Xêda hay không?" (23) Nhưng Đức Giêsu thấu suốt lòng xảo trá của họ, nên
Người nói: (24) "Cho tôi coi một đồng bạc ! Đồng tiền này mang hình và
danh hiệu của ai đây?" Họ đáp: "Của Xêda". (25) Người bảo họ:
"Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
(26) Chúng không tài nào bắt quả tang Người lỡ lời trước mặt dân; nghe
câu trả lời của Người, chúng ngạc nhiên và làm thinh luôn.
Kẻ chết sống lại
(27) Có mấy người thuộc nhóm Xađốc đến gặp Đức Giêsu. Nhóm này chủ
trương không có sự sống lại. (28) Mấy người ấy hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy,
ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết
đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải cưới lấy nàng, để gầy dựng một
dòng giống cho anh hay em mình. (29) Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh
cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. (30) Người thứ hai, (31) rồi người
thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để
lại đứa con nào. (32) Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. (33) Vậy trong ngày
sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?"
(34) Đức Giêsu đáp: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, (35) chứ
những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không
cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. (36) Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được
ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống
lại. (37) Còn về vấn để kẻ chết sống lại, thì chính ông Môsê cũng đã cho thầy
trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phục
Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. (38) Mà
Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì
đối với Người, tất cả đều đang sống".
(39) Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: "Thưa
Thầy, Thầy nói hay lắm". (40) Quả vậy, họ không dám chất vấn Người điều gì
nữa.
Đức Kitô là Con và cũng là Chúa của vua Đavít
(41) Nhưng Người hỏi họ: "Sao người ta lại nói Đấng Kitô là con vua
Đavít? (42) Vì chính vua Đavít đã nói trong sách Thánh Vịnh:
Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng
tôi:
Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị,
(43) Để rồi bao địch thù,
Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con.
(44) Như vậy, vua Đavít gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng; thế thì làm sao
Đấng Kitô lại là con vua Đavít ấy được.
Đức Giêsu khiển trách các kinh sư
(45) Toàn dân đang nghe, thì Người nói với các môn đệ: (46) "Anh em
phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng,
thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội
đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. (47) Họ nuốt hết tài sản của các bà
goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án
nghiêm khắc hơn".
Chương 21:
Hai đồng tiền nhỏ của bà goá
(1) Ngước mắt lên nhìn, Đức Giêsu thấy những người giàu đang bỏ tiền
dâng cúng của họ vào thùng tiền. (2) Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia
bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. (3) Người liền nói: "Thầy bảo thật anh em; bà
goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. (4) Quả vậy, tất cả những người kia
đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ
cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để sống".
Bài giảng về sự sụp đổ của thành Giêrusalem
(5) Nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá
đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: (6) "Những gì anh em đang chiêm
ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá
nào". (7) Họ hỏi Người: "Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy
ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?".
Những điềm báo trước
(8) Đức Giêsu đáp: "Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có
nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính ta đây", và:
"Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo họ. (9) Khi anh em nghe có
chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước,
nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu". (10) Rồi Người nói tiếp: "Dân
này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. (11) Sẽ có những trận
động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng
kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.
(12) "Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra
tay bắt và ngược đãi anh em, nộp cho các hội đường và nhà tù, và điệu đến trước
mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. (13) Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng
cho Thầy. (14) Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ
phải bào chữa cách nào. (15) Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn
ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại
được. (16) Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ
sẽ giết một số người trong anh em. (17) Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người
thù ghét. (18) Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. (19)
Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.
Giêrusalem bị vây hãm
(20) "Khi anh em thấy thành Giêrusalem bị các đạo binh vây hãm, bấy
giờ anh em hãy biết rằng đã gần đến ngày khốc hại của thành. (21) Bấy giờ, ai ở
miền Giuđê, hãy trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng
quê, thì chớ vào thành. (22) Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất
cả những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm. (23) Khốn thay những
người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó !
Cơn khốn khổ. Thời của dân ngoại
"Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ giáng
xuống dân này. (24) Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các
nước, và Giêrusalem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân
ngoại.
Những điềm lạ. Con Người quang lâm
(25) "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao.
Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. (26)
Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì
các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. (27) Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con
Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. (28) Khi những
biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp
được cứu chuộc".
Dụ ngôn cây vả
(29) Đức Giêsu kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn: "Anh em hãy xem
cây vả cũng như tất cả những cây khác. (30) Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì
đủ biết là mùa hè đã đến gần. (31) Anh em cũng vậy, khi thầy những điều đó xẩy
ra, thì hãy biết là Triều Đại Chúa đã đến gần. (32) Thầy bảo thật anh em: thế
hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. (33) Trời đất sẽ qua đi,
nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.
Phải tỉnh thúc và cầu nguyện
(34) "Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè
chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp
xuống đầu anh em, (35) vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất.
(36) Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đử sức thoát khỏi mọi
điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người".
Những ngày sau hết của Đức Giêsu
(37) Ban ngày, Đức Giêsu giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người
đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ôliu. (38) Sáng sớm, toàn dân đến với Người
trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy.
VI. THƯƠNG KHÓ
Chương 22:
Âm mưu hại Đức Giêsu. Giuđa tìm cách nộp Thầy
(1) Lễ Bánh Không Men, cũng gọi là lễ Vượt qua, đã đến gần. (2) Các
thượng tế và kinh sư tìm cách thủ tiêu Đức Giêsu, vì họ sợ dân.
(3) Xatan đã nhập vào Giuđa, cũng gọi là Ítcariốt, một người trong số Mười Hai. (4) Hắn đi nói chuyện với các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ về cách thức nộp Người cho họ. (5) Họ rất mừng và đồng ý sẽ cho hắn tiền. (6) Hắn ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu cho họ, lúc không có đám đông.
(3) Xatan đã nhập vào Giuđa, cũng gọi là Ítcariốt, một người trong số Mười Hai. (4) Hắn đi nói chuyện với các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ về cách thức nộp Người cho họ. (5) Họ rất mừng và đồng ý sẽ cho hắn tiền. (6) Hắn ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu cho họ, lúc không có đám đông.
Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua
(7) Đã đến ngày lễ Bánh Không men, ngày phải sát tế chiên Vượt qua. (8)
Đức Giêsu sai ông Phêrô với ông Gioan đi và dặn: "Các anh hãy đi dọn cho
chúng ta ăn lễ Vượt Qua". (9) Hai ông hỏi: "Thầy muốn chúng con dọn ở
đâu?" (10) Người bảo họ: "Này, khi vào thành, các anh sẽ gặp một
người mang vò nước. Cứ đi theo người đó, người đó vào nhà nào, (11) thì các anh
vào thưa với chủ nhà: "Thầy nhắn ông: "Căn phòng dành cho tôi ăn lễ
Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?" (12) Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh
một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã được trang bị: các anh hãy dọn ở đó".
(13) Các ông ra đi, thấy mọi sự y như Người đã nói, và các ông dọn tiệc Vượt
Qua.
Ăn tiệc Vượt Qua
(14) Khi giờ đã đến, Đức Giêsu vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với
Người. (15) Người nói với các ông: "Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ
Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. (16) Bởi vì, Thầy nói cho anh
em hay, Thầy sẽ không bao giời ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được
nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa".
(17) Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: "Anh em hãy
cầm lấy mà chia nhau. (18) Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không
còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Nước Thiên Chúa đến".
Đức Giêsu lập phép Thánh Thể
(19) Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời cảm ơn, bẻ ra, trao cho các ông và
nói: "Đây là mình Thầy, hy sinh vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà
tưởng nhớ đến Thầy". (20) Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như
vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh
em.
Đức Giêsu tiên báo Giuđa sẽ nộp Thầy
(21) "Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với
Thầy. (22) Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con
Người". (23) Các Tông Đồ bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là
kẻ toan làm chuyện ấy.
Kẻ làm đầu phải hầu thiên hạ
(24) Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người
lớn nhất. (25) Đức Giêsu bảo các ông: "Vua của các dân thì lấy quyền mà
thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. (26) Anh em thì
không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người phục
vụ. (27) Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người
ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.
Phần thưởng dành cho các Tông Đồ
(28) "còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những
lúc Thấy gặp thử thách gian nan. (29) Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh
em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, (30) để anh em được đồng bàn ăn uống với
Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc
Ítraen".
Đức Giêsu tiên báo: ông Phêrô sẽ chối Thầy, nhưng
sẽ trở lại
(31) Rồi Chúa nói: "Simon, Simon ơi, kìa Xatan đã xin được sàng anh
em như người ta sàng gạo. (32) Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất
lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững
mạnh". (33) Ông Phêrô thưa với Người: "Lạy Chúa, với Chúa, con sẵn
sàng vào tù, và chết cũng cam". (34) Đức Giêsu lại nói: "Này anh
Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối
là không biết Thầy".
Giờ chiến đấu quyết liệt
(35) Rồi Người nói với các ông: "Khi Thầy sai anh em ra đi, không
túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?"
(36) Các ông đáp: "Thưa thầy, không". Người bảo các ông: "Nhưng
bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy; còn ai chưa
có gươm thì bán áo đi mà mua. (37) Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng
nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm
pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất". (38) Các ông
nói: "Lạy Chúa, này có hai thanh gươm đây". Người bảo họ: "Đủ
rồi !"
Tại núi Ôliu
(39) Rồi Người đi ra núi Ôliu như đã quen. Các môn đệ cững theo Người.
(40) Đến nơi, Người bảo các ông: "Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám
dỗ".
(41) Rồi Người đi cách các ông một quãng, chừng bằng ném một hòn đá, và
quỳ gối cầu nguyện rằng: (42) "Cha ơi, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi
uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha". (43)
Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người. (44) Người lâm cơn xao
xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu
rơi xuống đất.
(45) Cầu nguyện xong, Người đứng lên, đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang
ngủ vì buồn phiền, (46) Người liền nói với các ông: "Sao anh em lại ngủ?
Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ".
Đức Giêsu bị bắt
(47) Người còn đang nói, thì kìa một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu
tên là Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giêsu để hôn
Người. (48) Đức Giêsu bảo hắn: "Giuđa ơi ! Anh dùng cái hôn mà nộp Con
Người sao?" (49) Thấy việc sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người
liền hỏi: "Lạy Chúa, chúng con tuốt gươm chém được không?" (50) Thế
rồi một người trong nhóm chém tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên
phải. (51) Nhưng Đức Giêsu lên tiếng: "Thôi, ngừng lại". Và người sờ
vào tai tên đầy tớ mà chữa lành.
(52) Rồi Đức Giêsu nói với các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục
đến bắt Người: "Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến như thể bắt một tên cướp
sao? (53) Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay
bắt. Nhưng đây là giờ của các ông và quyền lực của tối tăm".
Ông Phêrô chối Thầy
(54) Họ bắt Đức Giêsu, điệu Người đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phêrô
thì theo xa xa. (55) Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì
ông Phêrô đến ngồi giữa họ. (56) Thầy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái
nhìn ông chòng chọc và nói: "Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy !" (57)
Ông liền chối: "Tôi có biết ông ấy đâu, chị !" (58) Một lát sau, có
người khác thấy ông, liền nói: "Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng
!" Nhưng ông Phêrô đáp lại: "Này anh, không phải đâu !" (59)
Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: "Đúng là bác này cũng đã ở
với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê". (60) Nhưng ông Phêrô trả lời:
"Này anh, tôi không biết anh nói gì !" Ngay lúc ông còn đang nói, thì
gà gáy. (61) Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: "Hôm
nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần". (62) Và ông ra ngoài,
khóc lóc thảm thiết.
Đức Giêsu bị đánh đập
(63) Những kẻ canh giữ Đức Giêsu nhạo báng đánh đập Người. (64) Chúng
bịt mắt Người lại, rồi hỏi rằng: "Nói tiên tri xem: ai đánh ông đó?"
(65) Chúng còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Người.
Đức Giêsu ra trước Thượng Hội Đồng
(66) Khi trời sáng đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm
họp. Họ điệu Người ra trước Thượng Hội Đồng (67) và hỏi: "Ông có phải là
Đấng Mêsia thì nói cho chúng tôi biết !" Người đáp: "Tôi có nói với
các ông, các ông cũng chẳng tin; (68) tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời.
(69) Nhưng từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". (70)
Mọi người liền nói: "Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?" Người đáp:
"Đúng như các ông nói, chính tôi đây". (71) Họ liền nói: "Chúng
ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói !"
Chương 23:
(1) Toàn thể cử toạ đứng lên, điệu Đức Giêsu đến ông Philatô.
Đức Giêsu ra trước toà tổng trấn Philatô
(2) Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: "Chúng tôi đã phát giác ra tên
này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế
Xêda, lại còn xưng mình là Mêsia, là Vua nữa". (3) Ông Philatô hỏi Người:
"Ông là Vua dân Dothái sao?" Người trả lời: "Chính Ngài nói
đó". (4) Ông Philatô nói với các thượng tế và đám đông: "Ta xét thấy
người này không có tội gì". (5) Nhưng họ cứ khăng khăng nói:"Hắn đã
xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giuđê, bắt đầu từ Galilê cho đến
đây". (6) Nghe nói thế, ông Philatô liền hỏi xem đương sự có phải là người
Galilê không. (7) Và khi biết Người thuôc thẩm quyền vua Hêrôđê, ông liền cho
gửi Người đến vua Hêrôđê, lúc ấy đang có mặt tại Giêrusalem.
Đức Giêsu ra trước mặt vua Hêrôđê
(8) Vua Hêrôđê thấy Đức Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được
gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người
làm một hai phép lạ. (9) Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả
lời gì cả. (10) Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. (11) Vua
Hêrôđê cùng với bọn lính tỏ ra khinh dể Người, khoác cho Người một chiếc áo rực
rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Philatô. (12) Ngày hôm ấy, vua
Hêrôđê và tổng trấn Philatô bắt đầu thân thiện với nhau, chứ trước kia hai bên
vẫn hiềm thù.
Đức Giêsu lại ra trước toà tổng trấn Philatô
(13) Bấy giờ ông Philatô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng
lại (14) mà nói: "Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động
dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có
tội gì, như các ngươi tố cáo. (15) Cả vua Hêrôđê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã
cho giải ông ấy lại cho chúng ta. Và các ngươi thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì
đáng chết cả. (16) Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra". (17) Vào mỗi dịp lễ
lớn, ông Philatô phải phóng thích cho họ một người tù. (18) Nhưng tất cả mọi
người đều la ó: "Giết nó đi, thả Baraba cho chúng tôi !" (19) Tên này
đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người.
(20) Ông Philatô muốn thả Đức Giêsu, nên lại lên tiếng một lần nữa. (21)
Nhưng họ cứ một mực la lớn: "Đóng đinh ! Đóng đinh nó vào thập gía !"
(22) Lần thứ ba, ông Philatô nói với họ: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian
ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả
ra". (23) Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và
tiếng la càng thêm dữ dội.
(24) Và ông Philatô phán quyết chấp thuận điều họ yêu cầu. (25) Ông
phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và
giết người. Con Đức Giêsu thì ông trao nộp theo ý họ muốn.
Trên đường lên núi Sọ
(26) Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là
Simôn, gốc Kyrênê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu. (27)
Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa
than khóc Người. (28) Đức Giêsu quay lại phía các bà mà nói: "Hỡi chị em
thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình
và cho con cháu của chị em. (29) Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói:
"Phúc thay những đàn bà hiếm hoi, những lòng dạ không sinh không đẻ, những
kẻ không cho bú mớm !" (30) Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non:
Đổ xuống chúng tôi đi !, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi ! (31) Vì cây
xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao ?"
(32) Có hai tên gian phi cũng bị điêu đi hành quyết cùng với Người.
Đức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá
(33) Khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập
giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. (34)
Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin tha cho họ, vì họ không
biết việc họ làm". Rồi họ bắt thăm mà chia nhau áo của Người.
Đức Giêsu bị nhục mạ
(35) Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn
đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô, của Thiên
Chúa, là người được tuyển chọn !" (36) Lính tráng cũng chế giễu Người.
Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống (37) và nói: "Nếu ông là vua dân
Dothái thì cứu lấy mình đi !" (38) Phía trền đầu Người, có bản án viết:
"Đây là vua người Do thái".
Người gian phi sám hối
(39) Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ
Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả
chúng tôi với !" (40) Nhưng tên kia mắng nó: "Mày đang chịu chung một
hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! (41) Chúng ta chịu
như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều
gì trái !" (42) Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: "Ông Giêsu ơi, khi ông
vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !" (43) Và Người nói với anh ta:
"Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng".
Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng
(44) Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt
đất, mãi đến giờ thứ chín. (45) Mặt trời tối đi. Bức màn trướng trong Đền Thờ
bị xé ngay chính giữa. (46) Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác
hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.
Sau khi Đức Giêsu tắt thở
(47) Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh
Thiên Chúa: "Người này quả thật là công chính !". (48) Và khi thấy
những việc xảy ra như thế, tất cả những đám người đã tụ tập đông đảo để xem
cảnh tượng ấy đều đấm ngực trở về nhà.
(49) Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giêsu cũng như
những phụ nữ đã theo Người từ Galilê; các bà đã chúng kiến những việc ấy.
Mai táng Đức Giêsu
(50) Và này có một người tên là Giôxép, thành viên của Thượng Hội Đồng,
một người lương thiện, công chính. (51) Ông đã không tán thành quyết định và
hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành Arimathê, một thành của người
Dothái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. (52) Ông đến gặp tổng
trần Philatô để xin thi hài Đức Giêsu. (53) Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải
gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất
ai bao giờ. (54) Hốm ấy là ngày áp lễ, và ngày sabát đã ló rạng.
(55) Cùng đi với ông Giôxép, có những người phụ nữ đã theo Đức Giêsu từ
Galilê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào.
(56) Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sabát,
các bà nghỉ lễ như Luật truyền.
VII. SAU PHỤC SINH
Chương 24:
Ngôi mộ trống
(1) Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo
dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. (2) Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. (3) Nhưng khi
bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả. (4) Họ còn đang phân vân,
thì kìa hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. (5) Đang lúc các bà sợ
hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: "Sao các bà lại tìm Người
Sống ở giữa kẻ chết? (6) Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi. Hãy
nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, (7) là Con Người phải bị
nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống
lại".
Các Tông Đồ không tin lời các phụ nữ
(8) Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giêsu đã nói. (9) Khi từ mộ
trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc
ấy. (10) Mấy bà nói đây là bà Maria Mácđala, bà Gioanna, và bà Maria, mẹ ông
Giacôbê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy.
(11) Nhưng các ông cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tín.
Ông Phêrô ra mộ
(12) Dầu vậy, ông Phêrô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn,
ông chỉ thấy những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự
việc đã xảy ra.
Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau
(13) Cùng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng
kia tên là Emmmau, cách Giêrusalem sáu mươi chặng. (14) Họ trò chuyện với nhau
về tất cả những sự việc mới xảy ra. (15) Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì
chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt họ còn bị ngăn
cản, không nhận ra Người. (17) Người hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi
với nhau về chuyện gì vậy? "Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
(18) Một trong hai người tên là Colêôpát trả lời: "Chắc ông là
người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra
trong thành mấy bữa nay". (19) Đức Giêsu hỏi: "Chuyện gì vậy?"
Họ thưa: "Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong
việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. (20) Thế mà các
thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã
đóng đinh Người vào thập giá. (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng
chính Người là Đấng cứu chuộc Ítraen. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là
ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã
làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác
Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống.
(24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy
nói; còn chính Người thì họ không thấy".
(25) Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: "Ôi những kẻ tối dạ,
những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ ! (28) Nào Đấng Kitô lại chẳng phải
chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? (27) Rồi
bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những
gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
(28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn
nữa. (29) Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã
xế chiều, và ngày sắp tàn". Bấy giờ Người vào ở lại với họ. (30) Khi đồng
bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra cho họ. (31) Mắt
họ liền mở ra và họ nhận ra Người nhưng Người lại biến mất. (32) Họ mới bảo
nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng
ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?".
(33) Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười
Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. (34) Những người này bảo hai ông:
"Chúa sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon". (35) Còn hai
ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế
nào khi Người bẻ bánh.
Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ
(36) Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo:
"Bình an cho anh em !" (37) Các ông kính hồn bạt vía, tưởng là thấy
ma. (38) Nhưng Người nói: "Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong
lòng? (39) Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có
xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?" (40) Nói xong, Người đưa tay
chân ra cho các ông xem. (41) Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ
ngàng, thì Người hỏi: "Ở đây anh em có gì ăn không?" (42) Các ông đưa
cho Người một khúc cá nướng. (43) Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
Những lời chỉ bảo sau hết cho các Tông Đồ
(44) Rồi Người bảo: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh
em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, Các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã
chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm". (45) Bấy giờ Người mở trí cho các
ông hiểu Kinh Thánh và bảo: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải
chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, (47) và phải nhân danh
Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để
được ơn tha tội. (48) Chính anh em là chứng nhân của những điều này.
(49) "Và đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa.
Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao
ban xuống".
Đức Giêsu được rước lên trời
(50) Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành
cho các ông. (51) Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được
rước lên trời. (52) Bấy giờ các ông bái lạy người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng
đầy hoan hỷ, (53) và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
=====//////=====
Lm Giuse Phạm Thanh Minh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét