GIÁO LÝ KINH THÁNH
DẪN NHẬP
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁTTHÊU
DÀN BÀI MÁTTHÊU
Ai cũng nhận
rằng, tin mừng theo Thánh Mátthêu được xếp đặt rất có hệ thống và mạch lạc. Trước tiên, chủ đề chung
là "Nước Trời" được trình bày thành năm bài giảng, phân biệt dễ dàng
bằng một công thức chung đặt ở cuối mỗi bài. "Khi Đức Giêsu giảng dạy
những điều ấy xong..." kết thúc bốn bài đầu (7,28; 11,1; 13,53; 19,1) và
bài cuối cùng: "Khi Đức Giêsu giảng dạy tất cả những điều ấy xong..."
(26,1). Mỗi bài giảng như thế lại được minh họa bằng một phần kể truyện. Người
ta phối hợp hai phần kể truyện và bài giảng bằng hai cách, tùy theo xếp yếu tố
nào đi trước.
Cách đơn
giản hơn là cho phần kể truyện đi trước. Theo cách này, nếu kể cả trình thuật
về thời thơ ấu (ch. 1-2) và về cuộc Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26-28) chúng
ta có nội dung Tin Mừng phân chia thành bảy phần như sau:
1.Phần Kể
truyện (Chương 03-04)
2. Bài giảng
trên núi (Chương 05-07)
1. Phần kể
truyện (Chương 08-09)
2. Bài giảng
về sứ mệnh truyền giáo (Chương 10)
1. Phần kể
truyện (Chương 11-12)
2. Bài giảng
bằng dụ ngôn (Chương 13)
1. Phần kể
truyện (Chương 14-17)
2. Bài giảng
về Giáo Hội (Chương 18)
1. Phần kể
truyện (Chương 19-23)
2. Bài giảng
về thời cánh chung (Chương 24-25)
Cách thứ
hai, đặt phần kể truyện sau bài giảng, phức tạp hóa hơn đôi chút, nhưng cũng
rất đáng chú ý:
Lời tựa: Mầu
nhiệm Chúa Giêsu (chương 1-2)
Phần I: Chúa
Giêsu công bố Nước Thiên Chúa và chuẩn bị Giáo Hội (chương 3,1-16,12)
Tiết mục
"bản lề": Từ Cựu Ước đến Tân Ước (chương 3-4)
1. Nước
Thiên Chúa đã đến: (chương 5-9)
* Bài giảng
trên núi (chương 5-7)
* Mười phép
lạ (chương 8-9)
2. Chúa sai các môn đệ đi giảng và Người giảng Nước Trời (chương 10-12)
* Bài giảng
truyền giáo (chương 10)
* Chúa đi
giảng (chương 11-12)A
3. Sự lựa
chọn trước lời giảng về Nước Trời (chương 13,1-16,12)
* Bài giảng
bằng dụ ngôn (chương 13,1-52)
* Hướng về
việc tuyên xưng ở Xêdarê (chương 13,53-16,12)
Phần II:
Cộng đoàn trong Nước Trời (chương 13,1-16,12)
Tiết mục
"bản lề": Cộng đoàn tuyên xưng Chúa mình (chương 16,13-17,27)
4. Từ dân
Dothái, Nước Trời chuyển qua Giáo Hội (chương 18-23)
* Bài giảng
về đời sống cộng đoàn (chương 18)
* Từ Galilê
lên Giêrusalem (chương 19-23)
5. Khai mạc
Nước Trời trong mầu nhiệm Vượt Qua (chương 24-28)
* Loan báo
Nước Trời vĩnh viễn đến trong Chúa Giêsu (chương 24-25)
* Mầu nhiệm
Vượt Qua khai mở Nước Thiên Chúa (chương 26-28)
TÁC GIẢ
Trong Tân
Ước có bốn bản danh sách Mười Hai Tông Đồ; tất cả bốn đều mang tên Mátthêu. Tin
Mừng thứ nhất xác định rõ Mátthêu là một "người thu thuế" (Mt 10,3 so
với Mc 3,18; Lc 6,15; Cv 1,13) được Chúa gọi đi theo Người, khi ông "đang
ngồi ở trạm thu thuế" (Mt 9,9). Thánh Máccô (2,14) và thánh Luca (5,27)
cũng kể một câu chuyện tương tự, nhưng lại nói người thu thuế ấy mang tên Lêvi.
Như vậy, Mátthêu người thu thuế cũng có tên là Lêvi. Rất có thể tên khai sanh
là Lêvi, còn Mátthêu là biệt danh Chúa Giêsu đặt cho ông khi ông đi theo Chúa.
Điều đáng để ý ở đây là hai tác giả Máccô và Luca đã tỏ ra tế nhị với vị Tông
Đồ từng là người thu thuế, nên đã kể lại câu chuyện trên dưới tên Lêvi, có lẽ
lúc bấy giờ trong các giáo đoàn ít ai biết tới. Mặt khác, tác giả Tin Mừng thứ
nhất đã kể rõ Mátthêu là người thu thuế như vậy, lại tránh không nói đến việc
chính Mátthêu đã khoản đãi Chúa Giêsu và các anh em một bữa tiệc thịnh soạn (x.
Luca). Tất cả những điều vừa ghi nhận về chuyện Chúa gọi người thu thuế, vẫn
được coi là dấu chỉ rằng chính thánh Tông Đồ Mátthêu là tác giả sách Tin mừng
vẫn mang tên ngài.
Quả vậy,
ngay từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo, truyền thống vẫn nhất mực coi thánh
Mátthêu là tác giả của Tin Mừng thứ nhất. Chứng từ trực tiếp và cũng cựu trào
nhất là lời Giám Mục Papiát (Hiêrapôli, quãng năm 110-120), do sử gia Êusêbiô
ghi lại. Theo sử gia này, thì Giám Mục Papiát viết: "Ông Mátthêu đã xếp
đặt theo thứ tự bằng tiếng Híppri, những lời (Chúa) nói, và mỗi người tùy khả
năng của mình mà phiên dịch (hoặc giải thích)". Theo các nhà bình luận
nhận xét, thì "Những lời (Chúa) nói" không chỉ hiểu về giáo huấn của
Chúa, mà về cả sự nghiệp của Người nữa. Tóm lại, là về một cuốn Tin Mừng trọn
vẹn từ khi Chúa chịu phép rửa cho đến Phục Sinh. Giám Mục Papiát nói thánh
Mátthêu viết bằng tiếng Híppri, thì phải hiểu là tiếng Aram người Dothái dùng
thời ấy, chứ không phải Híppri cổ điển của Cựu Ước.
Tiếc rằng
tác phẩm bằng Aram đó đã thất truyền rất sớm, một phần vì tình trạng rối ren ở
vùng Xyria Paléttin vào những thập niên cuối của thế kỷ thứ nhất, trước và sau
biến cố năm 70; phần khác cũng vì bản Mátthêu Hylạp được phổ biến mau lẹ tại
các giáo đoàn.
Thật ra thì
Giáo Hội chỉ nhìn nhận tác phẩm Hylạp này như là chính lục. Ai là tác giả bản
Mátthêu Hylạp này? Dựa vào chứng từ của Giám Mục Papiát người ta phỏng đoán
rằng ngay từ khi tác phẩm Aram mới ra, đã có nhiều bản dịch ra Hylạp khác nhau,
trong đó có bản chính lục ngày nay. Nói cho cùng thì lời Giám Mục Papiát có thể
chỉ hiểu về những bản giải thích hoặc dịch miệng. Căn cứ vào nội dung của bản
Hylạp hiện nay, có người cho rằng so với Mátthêu Aram, thì bản Mátthêu chính
lục là một sáng tác mới, chứ không phải một bản dịch. Dầu sao thì ai cũng phải
nhận Tin Mừng thứ nhất mang mầu sắc Dothái hay Sêmít rất rõ; người thực hiện
bản này phải là một người Dothái sống ở Đất Thánh hay trong vùng Xyria.
Theo kết quả
nghiên cứu hiện nay của việc phân tích văn chương và những đặc điểm có màu sắc
Dothái trong nội dung Mátthêu, người ta đồng ý kết luận rằng sách Tin Mừng này
dựa trên những tài liệu gốc Aram. Nhưng các nhà nghiên cứu không nhất trí với
nhau về việc coi bản văn Mátthêu Hylạp là bản dịch của Mátthêu Aram hay là một
công trình biên soạn dựa trên tài liệu gốc Aram. Do đó truyền thống coi thánh
Mátthêu là tác giả sách Tin Mừng này vẫn chưa bị bác bỏ.
ĐỘC GIẢ
Nguyên việc
thánh Mátthêu viết bằng tiếng Aram cũng là bằng chứng rõ ràng là ngài viết cho
các độc giả Dothái sống ở vùng Xyria Paléttin. Một đàng các chứng từ cổ xưa
nhất quả quyết điều đó. Mặt khác việc phân tách nội dung Tin Mừng cũng cho thấy
như vậy: điểm tiêu biểu nhất của Tin Mừng này là sử dụng Cựu Ước rất dồi dào.
Ít nhất cũng có tới 130 chổ trực tiếp đưa về Sách Thánh, trong đó có 43 chỗ
trích sát. Tác giả trích theo kiểu Dothái. Có những điều liên quan tới thói
quen, phong tục, nghi thức v.v... chỉ độc giả Dothái mới hiểu dễ dàng.
Cụ thể hơn
nữa, có lẽ thánh Mátthêu viết Tin Mừng trước tiên nhắm vào các cộng đoàn Kitô
giao từ Dothái giáo trở lại; đồng thời cũng nghĩ đến đồng bào Dothái của ngài
nói chung để giúp họ nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia mà dân tộc từng trông
mong. Những lời Chúa khiển trách dân Dothái cứng lòng, nhất là lên án các tật
xấu của nhóm Pharisêu và các kinh sư được tác giả nhấn mạnh đặc biệt.
Rất có thể
là bản Mátthêu Hylạp dù là được biên soạn trực tiếp bằng tiếng Hylạp, chứ không
phải là một bản dịch, thì cũng đã được soạn ra trước hết cho các cộng đoàn Kitô
giáo gốc Dothái sống ngoài đất thánh. Bởi vì trong bản này tác giả thấy không
cần giải thích những thói quen của người Dothái. Vì Hylạp là tiếng phổ thông
trong đế quốc Rôma thời ấy, nên Mátthêu Hylạp chẳng mấy chốc được phổ biến khắp
nơi.
THỜI GIAN VÀ NƠI BIÊN SOẠN
Việc phân
tích bản văn cũng như các dữ kiện truyền thống cung cấp không giúp xác định rõ
được thời gian ra đời của Mátthêu. Vì thế chỉ có thể phỏng định mà thôi. Về bản
Aram, có người cho rằng nó có thể ra đời quãng từ năm 40 tới 50 rồi, nghĩa là
sau một thời gian dành cho sự phát triển của truyền khẩu. Đàng khác hai thư
thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thêxalônica quãng năm 52; nếu các thư này thật
sự đã dựa vào diễn từ chung luận của Chúa Giêsu trong Tin Mừng thứ nhất, thì
Tin Mừng này phải có trước rồi. Hơn nữa, theo thánh Irênê, tác phẩm nguyên thủy
của thánh Mátthêu được soạn ra "khi Phêrô và Phaolô rao giảng Tin Mừng và
thiết lập Giáo Hội ở Rôma". Mặc dù không thể căn cứ vào lời này để ấn định
thời gian được, nhưng chúng ta cũng đoán được rằng Mátthêu Aram phải ra đời khá
sớm.
Về Mátthêu
Hylạp cũng vậy, không nói chính xác được. Vào cuối thế kỷ thứ nhất Tin Mừng này
đã được phổ biến khá rộng rãi. Có người nghĩ rằng bản chính lục này được thực
hiện trước năm 70. Nhưng ý kiến chung bây giờ là Tin Mừng Mátthêu chính lục
được soạn vào những năm từ 80 đến 90 tại Xyria Paléttin. Ý kiến này dựa vào
những yếu tố phản ánh sự chống đối quyết liệt giữa Hội Thánh Kitô giáo và cộng
đồng Dothái giáo sau khi Giêrusalem bị tàn phá, nhất là trong bài giảng trên
núi và trong trình thuật về Chúa Phục Sinh. Giới lãnh đạo Dothái quy tụ ở
Giamnia (Giápnê) sau năm 70 đã "tuyệt thông" với Kitô giáo.
MỤC ĐÍCH
Tin Mừng
Mátthêu trước tiên là một Tin Mừng có nhiều tính thần học hơn là lịch sử. Khía
cạnh hộ giáo, chống Dothái cũng có, nhưng không phải là chính yếu như một số
người nghĩ. Điều mà tác giả nhắm là trình bày con người Đức Giêsu và sự nghiệp
của Người: Đức Giêsu là Đấng Mêsia đích thực như Thiên Chúa đã phán hứa và loan
báo trước trong Cựu Ước. Người đến trần gian để rao giảng và thiết lập Nước
Thiên Chúa, Nước Thiên Chúa thể hiện trong cộng đoàn Giáo Hội. Hơn nữa Mátthêu
còn muốn cho thấy, qua sự nghiệp đó, Đức Giêsu đã dần dần chứng tỏ mình là Con
Thiên Chúa như thế nào. Điển hình là lời Người tuyên bố trước Thượng Hội Đồng
Dothái (26,64) và, ở cuối Tin Mừng, lệnh Chúa sai môn đệ ra đi tiếp tục sứ mệnh
của Người (28,18-20).
ĐẠO LÝ
1. Đức Giêsu là Đấng Mêsia Cựu Ước đã loan báo
Tin Mừng mở
đầu bằng gia phả của Chúa, khởi đầu là ông Ápraham, trung tâm là vua Đavít
(1,1-16). Rải rác trong tác phẩm, Chúa Giêsu xuất hiện như là con vua Đavít
(9,27; 12,23; 15,22; 20,30.32; 21,9.15) mặc dầu chính Người rất dè dặt về tước
hiệu này, vì quần chúng hay quan niệm lệch lạc.
Như đã nói,
Mátthêu sử dụng dồi dào Thánh Kinh Cựu Ước, dồi dào hơn các Tin Mừng khác, để
dẫn chứng, cách riêng đối với người Dothái vẫn chờ đợi Đấng Mêsia, rằng mọi sấm
ngôn của Cựu Ước đều ứng nghiệm nơi Đức Giêsu người Nadarét. Do đó, chúng ta
thường gặp những công thức quen thuộc, như "để ứng nghiệm điều Thiên Chúa
đã dùng vị ngôn sứ mà phán" hoặc như thế là ứng nghiệm".
Một trong
những nét đặc trưng của Mátthêu về Kitô học, đó là hình ảnh Môsê mới: Chúa
Giêsu chính là vị ngôn sứ cao cả Thiên Chúa hứa từ thời Xuất Hành (Đnl 18,18).
Phân phối Tin Mừng thành năm phần, sau khi đã giới thiệu thời thơ ấu của Chúa
qua năm sự việc, tác giả Mátthêu đã muốn đưa người đọc về ý tưởng Chúa Giêsu là
Đấng sáng lập Giao Ước mới, điều chỉnh và kiện toàn Luật cũ (x. 5,17-48).
Trình thuật
về thời thơ ấu của Chúa Giêsu gợi lên những trình thuật và truyền thuyết về
Môsê, năm phần gợi lên bộ Ngũ Thư và đặc biệt năm diễn từ của Môsê trong sách
Đệ Nhị Luật. Ngoài ra trong các biến cố đáng chú ý hơn của cuộc đời Chúa Giêsu,
như khi Chúa chịu cám dỗ, khi khai mạc Nước trời trên núi, lúc hiển dung, khi
hóa bánh ra nhiều trong sa mạc, lúc sai các Tông Đồ đi khắp thế giới...,
Mátthêu đều gợi cho độc giả nhận ra Chúa Giêsu là Môsê của Tân Ước.
2. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Chính Chúa
Cha đã mạc khải Người một cách long trọng tại sông Giođan (3,17) và trong cuộc
Hiển dung (17,5). Những lời xưng nhận của ma quỷ (8,29), của ông Phêrô
(16,16tt), của vị sĩ quan phụ trách cuộc hành quyết (27,54), tuy hãy còn mập mờ
trong hoàn cảnh lịch sử, nhưng đối với tác giả Mátthêu đó là những lời tuyên
xưng thần tính của Chúa. Dầu sao, những lời chính Chúa Giêsu nói về mình mới
thật là ý nghĩa, như khi Chúa tự cho mình là hơn cả Đền Thờ (12,6), hơn cả ngôn
sứ Giôna và vua Salômôn (12,41tt), và là Chúa của vua Đavít (22,41-46); khi tự
xưng là Con trong một tương quan duy nhất với Thiên Chúa (11,25tt; 12,50;
17,24-27; 21,33tt). Hai lời tuyên bố long trọng và dồi dào ý nghĩa nhất. Một là
trước thượng hội đồng Dothái (26,63tt): sau khi xác nhận mình là Đấng Mêsia,
Chúa Giêsu còn nhắc lại lời sấm Đanien về Con Người và cho hiểu Ngài là Thiên
Chúa ("ngự bên hữu Đấng Toàn Năng"). Hai là trước mặt các môn đệ quy
tụ lại trên núi để lãnh sứ mệnh tiếp tục sự nghiệp của Chúa Phục Sinh, mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi được công bố minh nhiên (28,18-20) và Chúa Giêsu cho thấy
Người chính là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" cho đến tận thế (x.
1,23).
3. Đấng sáng lập Hội Thánh
Hội Thánh là
cộng đoàn các "môn đệ", những người quy tụ quanh Chúa Giêsu và
"học gương Thầy" (11,29; 23,8). Trước tiên phải kể đến Nhóm Mười Hai,
rồi các bạn đồng hành khác của Chúa Giêsu khi Người còn tại thế, và nói chung
là các kẻ tin theo Người. Tuy nhiên sau khi Chúa Phục Sinh và được vinh thăng,
những người tin theo Chúa nhờ lời rao giảng của nhóm môn đệ đầu tiên cũng vẫn
được gọi là môn đệ. Như lời tuyên bố cuối cùng cho thấy (28,19a), ơn gọi làm
môn đệ được ban cho mọi người, ở mọi thời. Quả thế, Hội Thánh chính là Nước
Trời ở trần gian, do Chúa Giêsu thiết lập như một xã hội thánh phẩm, được trao
cho ông Phêrô (16,18-19) và các Tông Đồ lãnh đạo (18,18). Bởi thế nhóm môn đệ
tiên khởi, tuy vẫn mang tính lịch sử của mình, nhưng đã trở thành mẫu mực cho
các tín hữu của các thế hệ tiếp theo. Hội Thánh xuất phát từ lòng dân Dothái,
nên vẫn dựa trên căn bản Lề Luật cũ; nhưng chính Lề Luật thì đã được Chúa Giêsu
kiện toàn. Tư cách của Chúa Giêsu là vị Thầy chính thức giải thích Luật Môsê,
cho dân chúng và các môn đệ thấy thánh ý của Thiên Chúa, được Mátthêu nêu rõ
trong năm bài giảng, nhất là trong bài giảng trên núi. Qua bài giảng này
Mátthêu cho thấy một đàng Chúa Giêsu muốn đánh tan hiểu lầm của nhiều người cho
rằng khi Đấng Mêsia xuất hiện thì những đòi hỏi đạo đức của Cựu Ước cũng tiêu
tan (x. 5,17). Đàng khác Chúa Giêsu cũng phi bác những kẻ tự coi mình là người
nắm giữ ý định ngàn đời của Thiên Chúa (5,20). Thật ra đối với Mátthêu, chỉ có
lời Chúa Giêsu, được tiếp thu (7,24-26) và được hiểu đúng đắn (13,23), mới tạo
được sự công chính đích thật (5,20) và dẫn người môn đệ đi tới đích trên con
đường hoàn thiện (5,48; 19,21).
Mátthêu cho
thấy thái độ căn bản của người môn đệ Chúa Giêsu là biết nghe, hiểu và thực
hành lời của Người. Thật vậy, nếu trong Luca, môn đệ là chứng nhân, thì trong
Mátthêu, môn đệ chủ yếu là thính giả, là người lắng nghe Thầy giáo huấn, đặc
biệt trong các bài giảng. Chính để nói lên điều này mà trong bốn bài, Mátthêu
dùng công thức quen thuộc "các môn đệ đến gần" (5,1; 13,10.36; 18,1;
24,1.3) để nghe Chúa giáo huấn. Cũng nên biết rằng trong các Tin Mừng Nhất Lãm
thì Mátthêu là tác giả đưa ra nhiều nhất số lần huấn dụ dành riêng cho các môn
đệ: 9,37-11,1; 13,10-13; 16,24-28; 17,10-13.19-20; 18; 19,23-20,19; 21,21-22;
24,1-2; 24,3-25,46.
Nghe lời
Thầy giáo huấn, các môn đệ có hiểu không? Ở đây Mátthêu khác hẳn Máccô. Máccô
nhấn mạnh rằng các môn đệ không hiểu; còn Mátthêu thì lại cho thấy rằng các môn
đệ chính là những kẻ "nghe và hiểu lời rao giảng" (13,23). Quả thật ở
cuối bài giảng bằng dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ "Anh em có hiểu
những điều ấy không?" thì họ đã thưa: "Thưa hiểu" (13,51). Kiểu
nói: "Bấy giờ các môn đệ (mới) hiểu" xuất hiện ở 16,12 và 17,13 đều
cho thấy rằng hiểu lời Thầy là một đặc điểm của người môn đệ trong Mátthêu.
Tuy nhiên
cũng có bốn lần Mátthêu ghi nhận các môn đệ không hiểu (13,36; 15,16; 16,9;
17,13). Sở dĩ như vậy là vì nghe mà hiểu được là hồng ân, chứ không phải vì môn
đệ có trí khôn cắc sảo hay vì họ được ân thưởng do công trạng đã lập: "Bởi
vì anh em thì được ơn hiểu biết mầu nhiệm Nước Trời" (13,11).
Đặc điểm thứ
ba của người môn đệ Chúa Kitô theo Mátthêu là thực hành điều Thiên Chúa muốn.
Hiểu mà không thực hành thì chẳng khác gì nghe mà không hiểu. Chính ở điểm này,
lòng trung thành thực sự của người môn đệ được chứng minh và đây cũng là điều
tâm niệm đặc biệt của Mátthêu, như có thể thấy trong các câu xác định ai là bà
con đích thực của Đức Giêsu (12,46-50) và trong phần kết bài giảng trên núi
(7,13-27).
I. GIÁNG SINH VÀ THỜI THƠ ẤU CỦA ĐỨC GIÊSU
Chương 1
Gia phả Đức Giêsu Kitô
(1) Đây là
gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham:
(2) Ông
Ápraham sinh ông Ixaác; ông Ixaác sinh ông Giacóp; ông Giacóp sinh ông Giuđa và
các anh em ông này; (3) ông Giuđa ăn ở với bà Tama sinh ông Perét và ông Derác;
ông Perét sinh ông Khétxơron; ông Khétxơron sinh ông Aram; (4) ông Aram sinh
ông Amminađáp; ông Amminađáp sinh ông Nácson; ông Nácson sinh ông Xammon; (5)
ông Xammon lấy bà Rakháp sinh ông Bôát; ông Bôát lấy bà Rút sinh ông Ôvết; ông
Ôvết sinh ông Gisai; (6) ông Gisai sinh vua Đa-vít.
Vua Đavít
lấy vợ ông Urigia sinh vua Salômôn; (7) vua Salômôn sinh vua Rơkhópam; vua
Rơkhópam sinh vua Avigia; vua Avigia sinh vua Axa; (8) vua Axa sinh vua
Giơhosaphát; vua Giơhosaphát sinh vua Gioram; vua Gioram sinh vua Útdigia; (9)
vua Útdigia sinh vua Giotham; vua Giotham sinh vua Akhát; vua Akhát sinh vua
Khidơkigia; (10) vua Khigiơkigia sinh vua Mơnase; vua Mơnase sinh vua Amon; vua
Amon sinh vua Giôsigia; (11) vua Giôsigia sinh vua Giơkhongia và các anh em vua
này; kế đó là thời lưu đày ở Babylon.
(12) Sau
thời lưu đày ở Babylon, vua Giơkhongia sinh ông Santiên; ông Santiên sinh ông
Dơrúpbaven; (13) ông Dơrúpbaven sinh ông Avihút; ông Avihút sinh ông Êngiakim;
ông Êngiakim sinh ông Átdua; (14) ông Átdua sinh ông Xađốc; ông Xađốc sinh ông
Giakhin; ông Giakhin sinh ông Elihút; (15) ông Elihút sinh ông Ênada; ông Ênada
sinh ông Máttan; ông Máttan sinh ông Giacóp; (16) ông Giacóp sinh ông Giuse,
chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Ki-tô.
(17) Như
thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Ápraham đến vua Đavít, là mười bốn đời; từ
vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở
Babylon đến Đức Kitô, cũng là mười bốn đời.
Truyền tin cho ông Giu-se
(18) Sau đây
là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng
trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh
Thần. (19) Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà,
nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. (20) Ông đang toan tính như vậy, thì kìa
sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, là con cháu
Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền
năng Chúa Thánh Thần. (21) Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ
là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." (22) Tất
cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn
sứ:
(23) Này
đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ
là Emmanuen, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (24) Khi tỉnh
giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (25) Ông không ăn ở
với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
Chương 2
Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giê-su Hài Nhi
(1) Khi Đức
Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm
tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, (2) và hỏi: "Đức Vua dân Dothái mới
sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông,
nên chúng tôi đến bái lạy Người." (3) Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và
cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng
tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu.
(5) Họ trả lời: "Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép
rằng:
(6) Phần
ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của
Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời".
(7) Bấy giờ
vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao
đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: "Xin quý
ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi,
để tôi cũng đến bái lạy Người." (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy
giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi
ở, mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà,
thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo
tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó, họ được báo
mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Đức Giê-su trốn sang Ai-cập và các anh hài bị giết
(13) Khi các
nhà chiêm tinh đã ra về, thì kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse
rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó
cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!" (14) Ông
Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập.
(15) Ông ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa
qua miệng ngôn sứ:
Ta đã gọi
con Ta ra khỏi Ai-cập.
(16) Bấy giờ
vua Hêrôđê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi giận,
nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai
tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh. (17)
Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia:
(18) Ở Rama,
vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Ra-khen khóc thương con mình và
không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.
Từ Aicập về đất Israen
(19) Sau khi
vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, (20) báo
mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israen, vì
những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi." (21) Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi
và mẹ Người về đất Ítraen. (22) Nhưng vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là
Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo
mộng, ông lui về miền Galilê, (23) và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét,
để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng:
Người sẽ
được gọi là người Nadarét.
II. CÔNG BỐ NƯỚC TRỜI
1. Phần ký thuật
Chương 3
Ông Gioan Tẩy Giả rao giảng
(1) Hồi ấy,
ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê rằng: (2) "Anh
em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần." (3) Ông chính là người đã được
ngôn sứ Isaia nói tới:
Có tiếng
người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng
để Người đi.
(4) Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu
và mật ong làm thức ăn. (5) Bây giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê,
cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông. (6) Họ thú tội, và ông làm
phép rửa cho họ trong sông Giođan. (7) Thấy nhiều người thuộc phái Phrisêu và
phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã
chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? (8)
Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. (9) Và đừng tưởng có thể nghĩ
bụng rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham". Vì, tôi nói cho các anh
hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham.
(10) Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt
đi và quăng vào lửa. (11) Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng
các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng
xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.
(12) Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào
kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi".
Đức Giêsu chịu phép rửa
(13) Bấy
giờ, Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan, gặp ông Gioan để xin ông làm
phép rửa cho mình. (14) Nhưng ông một mực can Người và nói: "Chính tôi mới
cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" (15) Nhưng Đức
Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã, Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn
đức công chính". Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Người.
(16) Khi Đức
Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra.
Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người.
(17) Và kìa có tiếng từ trời phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài
lòng về Người".
Chương 4
Chúa Giêsu chịu cám dỗ
(1) Bấy giờ
Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. (2) Người ăn
chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. (3) Bấy giờ tên cám
dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những
hòn đá này hóa bánh đi!" (4) Nhưng Người đáp: "Đã có lời chép rằng:
Người ta
sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán
ra".
(5) Sau đó,
quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, (6) rồi nói với
Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời
chép rằng:
Thiên Chúa
sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi
vấp chân vào đá".
(7) Đức
Giêsu đáp: "Nhưng cũng đã có lời chép rằng:
Ngươi chớ
thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi".
(8) Quỷ lại
đem Người lên một ngọn núi cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các thế gian, và
vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, (9) và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả
những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi". (10) Đức Giêsu liền nói:
"Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng:
Ngươi phải
bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà
thôi".
(11) Thế rồi
quỷ bỏ Người mà đi, và kìa các sứ thần tiến đến hầu hạ Người.
Đức Giêsu lánh qua miền Galilê
(12) Khi Đức
Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê. (13) Rồi Người
bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt
Dơvunlun và Náptali, (14) để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói:
(15) Này đất
Dơvunlun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan,
hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! (16) Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử
thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
(17) Từ lúc
đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: "Anh em hãy sám hối, vì Nước
Trời đã đến gần".
Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên
(18) Người
đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là Simon, cũng gọi là
Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm
nghề đánh cá. (19) Người bảo các ông: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm
cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá". (20) lập tức hai ông
bỏ chài lưới mà đi theo Người.
(21) Đi một
quảng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người
em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong
thuyền. Người gọi các ông. (22) lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo
Người.
Đức Giêsu giảng dạy và chữa bệnh
(23) Thế rồi
Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng
Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân. (24) Danh
tiếng Người đồn ra khắp xứ Xyria. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc
đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người
đã chữa họ. (25) Từ miền Galilê, vùng Thập Tỉnh, thành Giêrusalem, miền Giuđê
và vùng bên kia sông Giođan, đám đông lũ lượt kéo đến đi theo Người.
2. Bài giảng trên núi
Chương 5
Tám mối phúc
(1) Thấy đám
đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. (2) Người mở
miệng dạy họ rằng:
(3)
"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
(4) Phúc
thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
(5) Phúc
thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
(6) Phúc
thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
(7) Phúc
thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
(8) Phúc
thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
(9) Phúc thay
ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
(10) Phúc
thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
(11) Phúc
cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu
xa.
(12) Anh em
hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
Quả vậy, các
ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.
Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian
(13)
"Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó
cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta
chà đạp thôi.
(14)
"Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài
nào che giấu được. (15) Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại,
nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. (16) Cũng vậy, ánh
sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc
tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
Đức Giêsu kiện toàn Luật Môsê
(17)
"Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy
đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. (18) Vì, Thầy bảo thật anh
em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không
thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. (19) Vậy ai bãi bỏ dù chỉ
là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị
gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ
được gọi là lớn trong Nước Trời.
Đức công chính của người môn đệ
(20)
"Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các
kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
Đừng giận ghét
(21)
"Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người,
thì đáng bị đưa ra tòa. (22) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em
mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa
ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị
lửa hỏa ngục thiêu đốt. (23) Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà
sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, (24) thì hãy để của lễ
lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ
vật của mình. (25) Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên
đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan tòa, quan tòa
lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. (26) Thầy bảo thật cho anh
biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Chớ ngoại tình
(27)
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. (28) Còn Thầy, Thầy bảo cho
anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình
với người ấy rồi. (29) Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc
mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa
ngục. (30) Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi;
vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục.
Đừng ly dị
(31)
"Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. (32) Còn
Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai
rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng
phạm tội ngoại tình.
Đừng thề thốt
(33)
"Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời
thề với Đức Chúa. (34) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả.
Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. (35) Đừng chỉ đất mà thề, vì
đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức
Vua cao cả. (36) Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc
hóa trắng hay đen được. (37) Nhưng hễ "có" thì phải nói
"có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt
điều gì là do ác quỷ.
Chớ trả thù
(38)
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. (39) Còn Thầy,
Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải,
thì hãy giơ cả má bên trái nữa. (40) Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của
anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. (41) Nếu có người bắt anh đi một dặm,
thì hãy đi với người ấy hai dặm. (42) Ai xin, thì anh hãy cho; ai muốn vay
mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi.
Phải yêu kẻ thù
(43)
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. (44)
Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi
anh em. (45) Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự
trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người
tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. (46) Vì nếu
anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những
người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? (47) Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em
mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng
làm như thế sao? (48) Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời
là Đấng hoàn thiện.
Chương 6
Bố thí cách kín đáo
(1)
"Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho
thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên
trời, ban thưởng. (2) Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn
đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta
khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (3) Còn anh, khi bố
thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, (4) để việc anh bố thí được kín
đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.
Cầu nguyện nơi kín đáo
(5) "Và
khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu
nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy.
Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. (6) Còn anh, khi cầu
nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện
diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công
cho anh.
Kinh "Lạy Cha"
(7)
"Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói
nhiều là được nhậm lời. (8) Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em
cần gì, trước khi anh em cầu xin.
(9)
"Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này:
"Lạy
Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,
xin làm cho
danh thánh Cha vinh hiển,
(10) triều
đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. (11) Xin Cha cho
chúng con hom nay lương thực hằng ngày; (12) xin tha tội cho chúng con như
chúng con cũng tha
cho những người có lỗi với chúng con; (13) xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
cho những người có lỗi với chúng con; (13) xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
(14)
"Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng
sẽ tha thứ cho anh em. (15) Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì
Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.
Ăn chay cách kín đáo
(16)
"Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm
cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em,
chúng đã được phần thưởng rồi. (17) Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch,
chải đầu cho thơm, (18) để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh,
Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ
trả công cho anh.
Của cải trên trời
(19)
"Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư
nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. (20) Nhưng hãy tích trữ cho mình những
kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch
và lấy đi được. (21) Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.
Đèn của thân thể
(22)
"Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng.
(23) Còn nếu mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh
lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào!
Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của
(24)
"Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia,
hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.
Tin tưởng vào Chúa quan phòng
(25)
"Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn;
cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và
thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? (26) Hãy xem chim trời: chúng không gieo,
không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng.
Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (27) Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ
lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (28) Còn về áo mặc
cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà
rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; (29) thế mà, Thầy bảo cho
anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng
một bông hoa ấy. (30) Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò,
mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém
tin! (31) Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì
đây? (32) Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời
thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. (33) Trước hết hãy tìm kiếm Nước
Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm
cho. (34) Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo.
Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.
Chương 7
Đừng xét đoán
(1) "Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, (2) vì
anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và
anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy. (3)
Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt
của mình thì lại không để ý tới? (4) Sao anh lại nói với người anh em:
"Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn", trong khi có cả một cái xà
trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi
anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.
Đừng quăng của thánh cho chó
(6) "Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo,
kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em.
Cứ xin thì sẽ được
(7)
"Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở
cho. (9) Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó
hòn đá? (10) Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? (11) Vậy nếu anh em là
những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha
anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin
Người.
Khuôn vàng thước ngọc
(12)
"Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em
cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó.
Hai con đường
(13)
"Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt
vong, mà nhiều người lại đi qua đó. (14) Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến
sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.
Cây nào trái ấy
(15)
"Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em;
nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. (16) Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì họ
biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà
bẻ? (17) Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. (18) Cây
tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. (19) Cây
nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. (20) Vậy, cứ xem họ
sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai.
Môn đệ chân chính
(21)
"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là
được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng
ngự trên trời, mới được vào mà thôi. (22) Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa
với Thầy rằng: "Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh
Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều
phép lạ đó sao?" (23) Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết
các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!
(24)
"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như
người khôn xây nhà trên đá. (25) Dù mưa sa, nước cuốn, hay bảo táp ập vào, nhà
ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. (26) Còn ai nghe những lời Thầy
nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trrên
cát. (27) Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ
tan tành".
Cách giảng dạy của Đức Giêsu
(28) Khi Đức
Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, đám đông sửng sốt về lời giảng dạy của
Người, (29) vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các
kinh sư của họ.
III. RAO GIẢNG NƯỚC TRỜI
1. Phần ký thuật
Chương 8
Đức Giêsu chữa người bị phong hủi
(1) Khi Đức
Giêsu ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. (2) Và kìa một người bị
phong hủi tiến lại, bái lạy Người và nói: "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài
có thể làm cho tôi được sạch". (3) Người giơ tay đụng vào anh và bảo:
"Tôi muốn, anh sạch đi". Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi. (4)
Rồi Đức Giêsu bảo anh: "Coi chừng, đừng nói với ai cả, nhưng hãy đi trình
diện tư tế và dâng của lễ, như ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta
biết".
Đức Giêsu chữa đầy tớ của một đại đội trưởng
(5) Khi Đức
Giêsu vào thành Caphácnaum, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài
xin: (6) "Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn
lắm". (7) Người nói: "Chính tôi sẽ đến chữa nó". Viên đại đội
trưởng đáp: (8) "Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin
Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. (9) Vì tôi đây, tuy dưới
quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này:
"Đi!", là nó đi, bảo người kia: "Đến!", là nó đến, và bảo
người nô lệ của tôi: "Làm cái này!", là nó làm". (10) Nghe vậy,
Đức Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Tôi bảo thật
các ông: tôi không thấy một người Ítraen nào có lòng tin như thế. (11) Tôi nói
cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các
tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. (12) Nhưng con cái Nước Trời
thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến
răng". (13) Rồi Đức Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: "Ông cứ
đi về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!" Và ngay giờ đó, người đầy tớ
được khỏi bệnh.
Đức Giêsu chữa bà mẹ vợ ông Phêrô
(14) Đức
Giêsu đến nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang nằm liệt và lên cơn sốt. (15)
Người đụng vào tay bà, cơn sốt dứt ngay và bà chỗi dậy phục vụ Người.
Đức Giêsu chữa lành mọi kẻ ốm đau
(16) Chiều
đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giêsu. Người nói một lời là
trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau, (17) để ứng nghiệm lời
ngôn sứ Isaia:
Người đã
mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta.
Người môn đệ phải bỏ mọi sự
(18) Thấy
xung quanh có đám đông, Đức Giêsu ra lệnh sang bờ bên kia. (19) Một kinh sư
tiến đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi
theo". (20) Đức Giêsu trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu".
(21) Một môn
đệ khác thưa với Người: "Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con
trước đã". (22) Đức Giêsu bảo: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết
chôn kẻ chết của họ".
Đức Giêsu dẹp yên biển động
(23) Đức
Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người, (24) và kìa biển động mạnh khiến
sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ. (25) Các ông lại gần đánh thức Người
và nói: "Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!" (26) Đức
Giêsu nói: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!" Rồi Người chỗi
dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ. (27) Các ông ngạc nhiên và
nói: "Người này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân
lệnh?"
Hai người bị quỷ ám
(28) Khi Đức
Giêsu sang bờ bên kia, và đến miền Gađara, thì có hai người bị quỷ ám từ trong
đám mồ mả ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy.
(29) Và kìa, chúng la lên rằng: "Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can
gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?" (30)
Khi ấy, ở đàng xa, có một bầy heo rất đông đang ăn. (31) Bọn quỷ nài xin Người
rằng: "Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo
kia". (32) Người bảo: "Đi đi!" Chúng liền ra khỏi hai người đó
và nhập vào bầy heo. Thế là tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và
chết đuối hết. (33) Các người chăn heo chạy trốn vào thành, kể lại mọi sự, và
những gì đã xảy ra cho những người bị quỷ ám. (34) Và kìa, cả thành ra đón Đức
Giêsu, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Chương 9
Đức Giêsu chữa người bại liệt
(1) Đức
Giêsu xuống thuyền, băng qua bờ, trở về thành của mình. (2) Và kìa, người ta
khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như
vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha
tội rồi!" (3) Và kìa mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: "Ông này nói phạm
thượng". (4) Nhưng Đức Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền nói: "Sao các
ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? (5) Trong hai điều: một là bảo: "Con
đã được tha tội rồi", hai là bảo: "Đứng dậy mà đi", điều nào dễ
hơn? (6) vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội - bấy
giờ Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà
đi!". (7) Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. (8) Thấy vậy, dân chúng sợ
hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế.
Đức Giêsu kêu gọi ông Matthêu
(9) Bỏ nơi
ấy, Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Matthêu
đang ngồi ở đó. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!" Ông đứng dậy đi
theo Người.
Đức Giêsu dùng bữa với những người tội lỗi
(10) Đức
Giêsu đang dùng bữa trong nhà, thì kìa, nhiều người thu thuế và người tội lỗi
kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. (11) Thấy vậy, những người Pharisêu
nói với các môn đệ Người rằng: "Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu
thuế, và quân tội lỗi như vậy?" (12) Nghe như thế, Đức Giêsu nói:
"Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. (13) Hãy về
học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi
không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi".
Tranh luận về việc ăn chay
(14) Bấy
giờ, các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Đức Giêsu rằng: "Tại sao chúng tôi
và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?" (15) Đức
Giêsu trả lời: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi
chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể đã bị đem đi, bấy giờ họ mới
ăn chay. (16) Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại,
khiến áo rách lại càng rách thêm. (17) Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu
da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới
thì đổ vào bầu mới: thế mới giữ được cả hai".
Đức Giêsu chữa người đàn bà bị băng huyết và cho con gái một kỳ
mục sống lại
(18) Người
còn đang nói với họ như thế, thì kìa, một kỳ mục đến gần bái lạy Người và nói:
"Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ
sống". (19) Đức Giêsu đứng dậy đi theo ông ấy, và các môn đệ cũng đi với
Người.
(20) Và kìa,
một người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm tiến đến phía sau Người và sờ
vào tua áo của Người, (21) vì bà nghĩ bụng: "Tôi chỉ cần sờ được vào áo
của Người thôi là sẽ được cứu!" (22) Đức Giêsu quay lại thấy bà thì nói:
"Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con". Và ngay từ
giờ ấy, bà được cứu chữa.
(23) Đức
Giêsu đến nhà viên kỳ mục; thấy phường kèn và đám đông xôn xao, Người nói: (24)
"Lui ra! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" Nhưng họ chế nhạo Người.
(25) Khi đám đông bị đuổi ra rồi, thì Người đi vào, cầm lấy tay con bé, nó liền
chỗi dậy. (26) Và tin ấy đồn ra khắp cả vùng.
Đức Giêsu chữa hai người mù
(27) Đang
khi Đức Giêsu ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng:
"Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!" (28) Khi Đức Giêsu về
tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ: "Các anh có
tin là tôi làm được điều ấy không?" Họ đáp: Thưa Ngài, chúng tôi
tin". (29) bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: "Các anh tin thế nào
thì được như vậy". (30) Mắt họ liền mở ra. Người nghiêm giọng bảo họ:
"Coi chừng, đừng cho ai biết!" (31) Nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói
về Người trong khắp cả vùng.
Đức Giêsu chữa người câm bị quỷ ám
(32) Họ vừa
đi ra thì kìa người ta đem đến cho Đức Giêsu một người câm bị quỷ ám. (33) Khi
quỷ bị trục xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông kinh ngạc, nói rằng:
"Ở Ítraen, chưa hề thấy thế bao giờ!" (34) Nhưng người Pharisêu lại
bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ".
Đức Giêsu thương dân chúng lầm than
(35) Đức
Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ,
rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
(36) Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than
vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. (37) Bấy giờ, Người nói với môn
đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. (38) Vậy anh em hãy xin
chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về".
2. Bài giảng về sứ mệnh truyền giáo
Chương 10
Đức Giêsu sai mười hai Tông Đồ đi giảng
(1) Rồi Đức
Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế,
để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
(2) Sau đây
là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, rồi đến
ông Anrê, anh của ông; sau đó là ông Giacôbê con ông Dêbêđê và ông Gioan, em
của ông; (3) ông Philiphê và ông Batôlômêô; ông Tôma và ông Matthêu người thu
thuế; ông Giacôbê con ông Anphê và ông Tađêô; (4) ông Simon thuộc nhóm Quá
Khích, và ông Giuđa Ítcariốt, chính là kẻ nộp Người. (5) Đức Giêsu sai mười hai
ông ấy đi và chỉ thị rằng:
"Anh em
đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samari. (6) Tốt
hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ítraen. (7) Dọc đường hãy rao giảng
rằng; Nước Trời đã đến gần. (8) Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ
chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã
được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. (9) Đừng sắm vàng bạc, hay
tiền đồng để giắt lưng. (10) Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng
đi giày hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
(11)
"Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai
là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. (12) Vào nhà nào, anh em
hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. (13) Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của
anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ
trở về với anh em. (14) Còn nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì
khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. (15) Thầy bảo thật
anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơđôm và Gômôra còn được xử khoan hồng hơn
thành đó. (16) Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh
em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.
Đức Giêsu tiên báo những cuộc bách hại
(17)
"hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh
đập anh em trong các hội đường của họ. (18) Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt
vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.
(19) Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói
gì: (20) thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Chúa Cha nói
trong anh em.
(21)
"Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái
sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. (22) Vì danh Thầy,
anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được
cứu thoát.
(23)
"Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành
khác. Thầy bảo thật anh em: anh em chưa đi hết các thành của Ítraen, thì Con
Người đã đến.
(24)
"Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. (25) trò được như thầy, tớ được như
chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bêendêbun, huống chi là
người nhà.
Hãy nói giữa ban ngày, đừng có sợ
(26)
"Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không
được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. (27) Điều Thầy nói
với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ
tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.
(28)
"Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng
hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. (29)
hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi
xuống đất ngoài ý của Cha anh em. (30) Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến
tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. (31) Vậy anh em đừng sợ, anh em còn
quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
(32)
"Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố
nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (33) Còn ai chối Thầy
trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự
trên trời.
Đức Giêsu đến để gây chia rẽ
(34)
"Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải
để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. (35) Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ
giữa người ta với cha mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng.
(36) Kẻ thù của mình chính là người nhà.
Từ bỏ mình để theo Đức Giêsu
(37)
"Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai
hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. (38) Ai không vác thập giá
mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. (39) Ai giữ lấy mạng sống mình, thì
sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.
Ai tiếp đón anh em là tiếp đón Thầy
(40)
"Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng
đã sai Thầy.
(41)
"Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh thưởng
dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người
công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.
(42)
"Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã
mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ
không mất phần thưởng đâu".
IV. MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI
1. Phần ký thuật
Chương 11
Nhập đề
(1) Khi Đức
Giêsu truyền dạy cho hai môn đệ xong, Người rời chỗ đó, đi dạy dỗ và rao giảng
trong các thành thị.
Câu hỏi của thánh Gioan Tẩy Giả và câu trả lời Của Đức Giêsu
(2) Ông
Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ
đến hỏi Người rằng: (3) "Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không,
hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" (4) Đức Giêsu trả lời: "Các
anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: (5) Người mù xem
thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống
lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, (6) và phúc thay người nào không vấp ngã vì
tôi".
(7) Họ đi
rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: "Anh em ra xem
gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? (8) Thế thì anh em ra
xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì
ở trong cung điện nhà vua. (9) Thế thì anh em ra làm gì? Để xem một vị ngôn sứ
chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.
(10) Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng:
Này Ta sai
sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.
(11)
"Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có
ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn
cao trọng hơn ông. (12) Từ thời Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải
đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được. (13) Cho đến ông Gioan, tất
cả các ngôn sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. (14) và nếu anh em chịu
tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Êlia, người phải đến. (15) Ai có tai nghe
thì nghe.
Đức Giêsu phán đoán về thế hệ của Người
(16)
"Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ
trẻ khác, (17) và nói:
"Tụi
tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám,
mà các anh không đấm ngực khóc than".
(18) Thật
vậy, ông Gioan đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: "Ông ta bị quỷ
ám". (19) Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo:
"Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi".
Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động".
Khốn cho những thành đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối
(20) Bấy giờ
Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn phép lạ Người làm mà
không sám hối:
(21)
"Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu
các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo
vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. (22) Vì thế, Ta nói cho các ngươi
hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các
ngươi. (23) Còn ngươi nữa, hỡi Caphácnaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận
trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi
ngươi mà được làm tại Xơđôm, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. (24) Vì
thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Xơđôm còn được xử khoan
hồng hơn các ngươi".
Chúa Cha và Người Con
(25) Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời
đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái
biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (26) Vâng, lạy
Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
(27)
"Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết Người Con, trừ Chúa
Cha; cũng như không biết Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mặc
khải cho.
Hãy mang lấy ách của tôi
(28)
"Tất cả những ai đang vất vả mang gáng nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ
cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (29) Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với
tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi
bồi dưỡng. (30) Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng".
Chương 12
Môn đệ bứt lúa ăn ngày sabát
(1) Khi ấy,
vào ngày Sabát, Đức Giêsu băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và
bắt đầu bứt lúa ăn. (2) Những người Pharisêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu:
"Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sabát!"
(3) Người đáp: "Các ông chưa đọc trong Sách à? Vua Đavít đã làm gì, khi
vua và thuộc hạ đói bụng? (4) Vua vào nhà Thiên Chúa, và đã cùng thuộc hạ ăn
bánh tiến. Thứ bánh này, họ không được phép ăn, chỉ có tư tế mới được ăn mà
thôi. (5) Hay các ông chưa đọc trong sách Luật rằng ngày sabát, các tư tế trong
Đền Thờ vi phạm luật sabát mà không mắc tội đó sao? (6) Tôi nói cho các ông
hay: ở đây còn lớn hơn Đền Thờ nữa. (7) Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu
này: Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô
tội. (8) Quả thế, Con Người làm chủ ngày sabát".
Đức Giêsu chữa người bị bại tay ngày sabát
(9) Đức
Giêsu bỏ đó mà đi vào hội đường của họ. (10) Tại đây, có người bị bại một tay.
Người ta hỏi Đức Giêsu rằng: "Có được phép chữa bệnh ngày sabát không?"
Họ hỏi thế là để tố cáo Người. (11) Người đáp: "Ai trong các ông có một
con chiên độc nhất bị sa hố ngày sabát, lại không nắm lấy nó và kéo lên sao?
(12) Mà người thì quý hơn chiên biết mấy! Vì thế, ngày sabát được phép làm điều
lành". (13) Rồi Đức Giêsu bảo người bại tay: "Anh giơ tay ra!"
Người ấy giơ ra và tay liền trở lại bình thường lành mạnh như tay kia. (14) Ra
khỏi đó, nhóm Pharisêu bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu.
Đức Giêsu, người Tôi Trung của Thiên Chúa
(15) Biết
vậy, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó. Dân chúng theo Người đông đảo và Người chữa
lành hết. (16) Người còn cấm họ không được tiết lộ Người là ai. (17) Như thế là
để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói:
(18) Đây là
người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu: Ta hài lòng về
Người. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người. Người sẽ loan bao công lý trước muôn
dân. (19) Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên
tiếng giữa phố phường. (20) Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn
leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng, (21) và
muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.
Đức Giêsu và quỷ vương Bêendêbun
(22) Bấy giờ
họ đem đến cho Đức Giêsu một người bị quỷ ám vừa mù lại vừa câm. Người chữa anh
ta, khiến anh nói và thấy được. (23) Tất cả dân chúng đều sửng sốt và nói:
"Ông này chẳng phải là Con vua Đavít sao?" (24) Nghe vậy, những người
Pharisêu nói rằng: "Ông này trừ được quỷ chỉ là nhờ dựa thế quỷ vương
Bêendêbun".
(25) Biết ý nghĩ của họ, Đức Giêsu nói: "Bất cứ nước nào tự chia
rẽ, thì sẽ điêu tàn. Bất cứ thành nào hay nhà nào tự chia rẽ, thì sẽ không tồn
tại. (26) Nếu Xatan mà trừ Xatan, thì là Xatan tự chia rẽ: nước nó tồn tại sao
được? (27) Nếu tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ, thì đệ tử các ông dựa thế ai
mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. (28) Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí
của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.
(29)
"Làm sao người ta có thể vào nhà một kẻ mạnh và cướp của được, nếu không
trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó?
(30)
"Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là
phân tán. (31) Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm
thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng
được tha. (32) Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến
Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.
Lòng có đầy miệng mới nói ra
(33)
"Cây mà tốt thì quả cũng tốt; cây mà sâu thì quả cũng sâu, vì xem quả thì
biết cây. (34) Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt
được? Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. (35) Người tốt thì rút cái tốt từ kho
tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình. (36) Tôi
nói cho các người hay: đến Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều
vô ích mình đã nói. (37) Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và
cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án".
Dấu lạ ngôn sứ Giôna
(38) Bấy giờ
có mấy kinh sư và mấy người Pharisêu nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy,
chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ". (39) Người đáp: "Thế hệ
gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào,
ngoài dấu lạ ngôn sứ Giôna. (40) Quả thật, ông GIôna đã ở trong bụng kình ngư
ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm
như vậy. (41) Trong cuộc phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ
này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giona rao giảng; mà
đây thì còn hơn ông Giona nữa. (42) Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ
đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái
đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salômôn; mà đây thì còn hơn vua Salômôn
nữa.
Quỷ phản công
(43)
"Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy,
tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm không ra. (44) Bấy giờ nó nói: "Ta sẽ trở về nhà
ta, nơi ta đã bỏ ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét
tước, trang hoàng hẳn hoi. (45) Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và
chúng vào ở đó. Rốt cuộc, tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước. Thế hệ
gian ác này rồi cũng sẽ bị như vậy".
Ai thuộc gia đình của Đức Giêsu?
(46) Người
còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm
cách nói chuyện với Người. (47) Có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ
và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy". (48)
Người bảo kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" (49) Rồi
Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi.
(50) Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là
anh chị em tôi, là mẹ tôi".
2. Bài giảng bằng dụ ngôn
Chương 13
Nhập đề
(1) Hôm ấy,
Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ. (2) Có đám đông lớn tụ họp bên
Người, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn toàn thể đám đông thì đứng trên
bờ. (3) Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.
Dụ ngôn người gieo giống
Người nói:
"Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. (4) Trong khi người ấy gieo, thì
có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. (5) Có những hạt rơi
trên nơi sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; (6)
nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. (7) Có
những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. (8) Có những hạt lại
rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục,
hạt được ba chục. (9) Ai có tai thì nghe".
Tại sao Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói?
(10) Các môn
đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: "Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với
họ?" (11) Người đáp: "Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu
nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. (12) Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư
thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. (13) Bởi thế,
nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không
nghe không hiều. (14) Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ
Isaia, rằng:
Các ngươi có
lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có tro mắt nhìn cũng chẳng thấy. (15) Vì long
dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt
chúng thấy,
tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.
tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.
(16)
"Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có
phúc, vì được nghe. (17) Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều
người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy,
nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.
Giải nghĩa dụ ngôn người gieo giống
(18)
"Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống. (19) Hễ ai nghe lời rao
giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng
người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường. (20) Còn kẻ được gieo trên nơi
sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. (21) Nhưng nó không đâm rễ
mà là kẻ nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay.
(22) Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời,
và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì. (23) Còn
kẻ được gieo vào đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thí tất nhiên sinh hoa kết
quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục".
Dụ ngôn cỏ lùng
(24) Đức
Giêsu trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: "Nước Trời thì ví như
chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. (25) Khi mọi người đang ngủ,
thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. (26) Khi lúa
mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. (27) Đầy tớ mới đến thưa chủ
nhà rằng: "Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao?
Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy?" (28) Ông đáp: "kẻ thù đã làm đó!"
Đầy tớ nói: "Vậy ông có muốn chúng tôi ra nhặt đi không?" (29) Ông
đáp: Đừng, sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. (30) Cứ để cả
hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy nhặt cỏ
lùng trước đã, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho
tôi".
Dụ ngôn hạt cải
(31) Đức
Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: "Nước Trời
cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. (32) Tuy nó
là loại nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ rau lớn
nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được".
Dụ ngôn men trong bột
(33) Người
còn kể cho họ một dụ ngôn khác: "Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men
bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men".
Tại sao Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói?
(34) Tất cả
các điều ấy, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Người không nói gì
với họ mà không dùng dụ ngôn, (35) hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ:
Mở mieng ra,
tôi sẽ kể dụ ngôn, công bố những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa.
Giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng
(36) Bấy
giờ, Đức Giêsu bỏ đám đông mà về nhà. Các môn đệ lại gần Người và thưa rằng:
"Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe".
(37) Người đáp: "Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. (38) Ruông là thế
gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. (39)
Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên
thần. (40) Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến
ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. (41) Con Người sẽ sai các thiên thần của
Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều ác, mà tống ra
khỏi Nước của Người, (42) rồi quăng chúng vào lò lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc
lóc nghiến răng. (43) Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong
Nước của Cha họ. Ai có tai thì nghe.
Dụ ngôn kho báu và ngọc quý
(44)
"Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia
gặp được thì liền chôn giấu lại rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà
mua thửa ruộng ấy.
(45)
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. (46)
Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua
viên ngọc ấy.
Dụ ngôn chiếc lưới
(47)
"Nước trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ
thứ cá. (48) Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào
giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. (49) Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như
vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người
công chính, (50) rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc
nghiến răng.
Kết thúc
(51)
"Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?" Họ đáp: "Thưa
hiểu". (52) Người bảo họ: "Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học
hỏi về Nước trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ kho tàng của mình cả
mới lẫn cái cũ".
Đức Giêsu về thăm Nadarét
(53) Khi Đức
Giêsu kể các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó. (54) Người về quê, giảng
dạy trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: "Bởi đâu ông ta được
khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? (55) Ông không phải là con bác
thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria; anh em của ông không phải là
các ông Giacôbê, Gioxép, Simon và Giuđa sao? (56) và chị em của ông không phải
đều là bà con lối xóm vói chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?"
(57) Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ
rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà
thôi". (58) Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.
V. GIÁO HỘI, BƯỚC ĐẦU CỦA NƯỚC TRỜI
1. Phần ký thuật
Chương 14
Vua Hêrôđê và Đức Giêsu
(1) Thời ấy,
tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, (2) thì nói với những kẻ hầu cận
rằng: "Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết chỗi dậy, nên
quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông".
Ông Gioan Tẩy Giả bị chém đầu
(3) Số là
vua Hêrôđê đã bắt trói ông Gioan và tống ngục vì bà Hêrôđia, là vợ ông
Philipphê, anh của nhà vua. (4) Ông Gioan có nói với nhà vua: "Ngài không
được phép lấy bà ấy". (5) Vua muốn giết ông Gioan, nhưng lại sợ đám đông,
vì họ coi ông là ngôn sứ. (6) Vậy, nhân ngày sinh nhật của vua Hêrôđê, con gái
bà Hêrôđia đã biểu diễn một vài điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua
vui thích. (7) Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. (8) Nghe lời
mẹ xui bảo, cô thưa rằng: "Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông
Gioan tẩy Giả đặt trên mâm". (9) Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót
thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. (10) Vua sai người vào
ngục chặt đầu ông Gioan. (11) Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho
cô, và cô ta đem đến cho mẹ. (12) Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem chôn, rồi
đi báo cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất
(13) Nghe
tin ấy, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến chỗ hoang vắng riêng biệt.
Nghe biết vậy, đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người. (14) Ra khỏi thuyền,
Đức Giêsu trông thấy một đám người đông đúc thì chạnh lòng thương, và chữa lành
các bệnh nhân của họ.
(15) Chiều
đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn
rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức
ăn". (16) Đức Giêsu bảo: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em
hãy cho họ ăn". (17) Các ông đáp: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn
năm cái bánh và hai con cá!" (18) Người bảo: "Đem lại đây cho
Thầy!" (19) Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả lưng trên cỏ. Người
cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và
bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông. (20) Ai nấy đều ăn và được
no nê. Những mẫu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. (21) Số
người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
Đức Giêsu đi trên mặt nước
(22) Đức
Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người
giải tán đám đông. (23) Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà
cầu nguyện. Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình, (24) còn chiếc thuyền thì đã ra
xa bờ nhiều dặm, bị sóng đánh vì ngược gió. (25) còn chiếc thuyền thì đã ra xa
bờ nhiều dặm, bị sóng đánh vì ngược gió. (25) Vào khoảng canh tư, Người đi trên
mặt biển mà đến với các môn đệ. (26) Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng
hốt bảo nhau: "Ma đấy!", và sợ hãi la lên. (27) Đức Giêsu liền bảo
các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" (28) Ông Phêrô liền
thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi
trên mặt nước mà đến với Ngài". (29) Đức Giêsu bảo ông: "Cứ
đến!" Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức
Giêsu. (30) Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm, ông la lên:
"Thưa Ngài, xin cứu con với!" (31) Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông
và nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?" (32) Khi thầy
trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. (33) Những kẻ ở trong thuyền bái lạy
Người và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!"
Đức Giêsu chữa nhiều người đau ốm tại Ghennêxarét
(34) Khi qua
biển rồi, thầy trò lên đất liền, vào Ghennêxarét. (35) Dân địa phương nhận ra
Đức Giêsu, liền tung tin ra khắp vùng, và người ta đem tất cả những kẻ đau ốm
đến với Người. (36) Họ nài xin Người cho họ chỉ sờ vào gấu áo của Người thôi,
và ai đã sờ vào thì đều được khỏi.
Chương 15
Tranh luận về truyền thống
(1) Bấy giờ
có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói
rằng: (2) "Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu
rửa tay khi dùng bữa? (3) Người trả lời: "Còn các ông, tại sao các ông dựa
vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? (4) Quả thế,
Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải
bị xử tử. (5) Còn các ông, các ông lại bảo: "Ai nói với cha mẹ rằng: những
gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, (6) thì người ấy,
không phải thờ cha kính mẹ nữa". Như thế, các ông dựa vào truyền thống của
các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa. (7) Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia
thật đã nói tiên tri đúng về các ông rằng:
(8) Dân này
Kính Ta bằng môi bằng miệng, con lòng chúng thì lại xa Ta. (9) Chúng có thờ
phượng Ta thì cũng vô ích,
vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.
vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.
Cái gì làm cho con người ra ô uế?
(10) Sau đó,
Đức Giêsu gọi đám đông lại mà bảo: "Xin nghe đây và hiểu cho rõ: (11)
Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra,
cái đó mới làm cho con người ra ô uế".
(12) Bấy giờ
các môn đệ đến gần Đức Giêsu mà thưa rằng: "Thầy có biết không? Những
người Pharisêu đã vấp phạm khi nghe Thầy nói lời ấy". (13) Đức Giêsu đáp:
"Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì sẽ bị
nhổ đi. (14) Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù mà lại dắt mù,
cả hai sẽ lăn cù xuống hố".
(15) Ông
Phêrô thưa với Người: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cho chúng con".
(16) Đức Giêsu đáp: "Cả anh em nữa, bây giờ mà anh em vẫn còn ngu tối sao?
(17) Anh em không hiểu rằng bất cứ cái gì vào miệng thì xuống bụng, rồi bị thải
xuống cầu tiêu sao? (18) Còn những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng,
chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. (19) Vì tự lòng phát xuất
những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm
chứng gian và vu khống. (20) Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế; còn
ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế".
Đức Giêsu chữa con gái người đàn bà Canaan
(21) Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon, (22) thì này có một
người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: "Lạy Ngài là con vua
Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!" (23)
Nhưng Người không đáp lại một lời.
Các môn đệ
lại gần xin với Người rằng: "Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo
sau chúng ta mà kêu mãi!" (24) Người đáp: "Thầy chỉ được sai đến với
những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi". (25) Bà ấy đến bái lạy mà
thưa Người rằng: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!" (26) Người đáp:
"Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con". (27) Bà
ấy nói: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn
trên bàn chủ rơi xuống". (28) Bấy giờ Đức Giêsu đáp: "Này bà, lòng
tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy". Từ giờ đó, con gái bà
được khỏi.
Đức Giêsu chữa nhiều bệnh nhân tại ven Biển Hồ Galilê
(29) Đức
Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Galilê. Người lên núi và ngồi đó.
(30) Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què
quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy
dưới chân Người và Người chữa lành, (31) khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy
kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy.
Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Ítraen.
Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai
(32) Đức
Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở
luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ,
để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường". (33) Các môn đệ thưa:
"Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như
vậy ăn no?" (34) Đức Giêsu hỏi: "Anh em có mấy chiếc bánh?" Các
ông đáp: "Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ". (35) Bấy giờ,
Người truyền cho đám đông ngả lưng xuống đất. (36) Rồi Người cầm lấy bảy chiếc
bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho
đám đông. (37) Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta
thu lại bảy thúng đầy. (33) Số người ăn có tới bốn ngàn người đàn ông, không kể
đàn bà và trẻ con. (39) Sau khi giải tán đám đông, Đức Giêsu lên thuyền, sang
miền Magađan.
Chương 16
Người Do thái đòi dấu lạ từ trời
(1) Bấy giờ,
có những người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc lại gần Đức Giêsu, và để thử
Người, thì xin Người cho thấy một dấu lạ từ trời. (2) Người đáp: "Chiều
đến, các ông nói: "Ráng vàng thì nắng", (3) rồi sớm mai, các ông nói:
"Ráng trắng thì mưa". Cảnh sắc bầu trời thì các ông biết cắt nghĩa,
còn thời điềm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi. (4) Thế hệ gian ác và ngoại
tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông
Giôna". Rồi Người bỏ họ mà đi.
Men Pharisêu và Xađốc
(5) Khi sang
bờ bên kia, các môn đệ quên đem bánh. (6) Đức Giêsu bảo các ông: "Anh em
phải cẩn thận, phải coi chừng men Pharisêu và Xađốc". (7) Các môn đệ nghĩ
thầm rằng: "Tại chúng ta không đem bánh". (8) Nhưng, biết thế, Đức
Giêsu nói: "Sao anh em lại nghĩ đến chuyện không có bánh, người đâu mà kém
tin vậy? (9) Anh em chưa hiểu ư? Anh em không nhớ chuyện năm chiếc bánh nuôi
năm ngàn người sao? Và anh em còn thu lại được bao nhiêu giỏ? (10) Rồi chuyện
bảy chiếc bánh nuôi bốn ngàn người nửa? Và anh em còn thu lại được bao nhiêu
thúng? (11) Tại sao anh em không hiểu rằng Thầy chẳng có ý nói về bánh, khi
Thầy nói: Anh em phải coi chừng men Pharisêu và Xađốc?" (12) Bấy giờ các
ông mới hiểu là Người không bảo phải coi chừng men bánh, mà phải coi chừng giáo
lý Pharisêu và Xađốc.
Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
(13) Khi Đức
Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng:
"Người ta nói Con Người là ai?" (14) Các ông thưa: "Kẻ thì nói
là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia
hay một trong các vị ngôn sứ". (15) Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em,
anh em bảo Thầy là ai?" (16) Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". (17) Đức Giêsu nói với ông: "Này anh
Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc
khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy,
Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy
sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (19) Thầy
sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời
cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ
tháo cởi như vậy". (20) Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho
ai biết Người là Đấng Kitô.
Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất
(21) Từ lúc
đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem,
phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị
giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. (22) Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra
và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải
chuyện ấy!" (23) Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: "Xatan, lui
ra đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng
của Thiên Chúa, mà là của loài người".
Điều kiện phải có để theo Đức Giêsu
(24) Rồi Đức
Giêsu nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình mà theo. (25) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. (26) Vì
nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?
Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?
(27)
"Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các
thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.
(28) Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt đây, có những kẻ sẽ không phải
nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị"
Chương 17
Đức Giêsu biến đổi hình dạng
(1) Sáu ngày
sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo
bên mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. (2) Rồi
Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt
trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (3) Và kìa các ông thấy
ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. (4) Bấy giờ ông Phêrô thưa với
Đức Giêsu rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, hay quá! Nếu Ngài muốn, con
xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một
cái". (5) Ông còn đang nói, thì kìa có đám mây sáng ngời bao phủ các ông,
và kìa có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài
lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (6) Nghe vậy, các môn
đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. (7) Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào
các ông và bảo: "Chỗi dậy đi, đừng sợ!" (8) Các ông ngước mắt lên,
không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi.
Câu hỏi về ngôn sứ Êlia
(9) Đang khi
thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: "Đừng nói
cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy". (10)
Các môn đệ hỏi Người rằng: "Vậy sao các kinh sư lại nói Êlia phải đến
trước?" (11) Người đáp: "Ông Êlia phải đến để chỉnh đốn mọi sự. (12)
Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại
còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như
thế". (13) Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gioan Tẩy Giả.
Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong
(14) Khi
thầy trò đến với đám đông, thì có một người tới quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu
(15) và nói: "Thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị kinh
phong và bệnh tình nặng lắm: nhiều khi ngã vào lửa, nhiều khi ngã xuống nước.
(16) Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không chữa
được". (17) Đức Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và
gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các
người cho đến bao giờ nữa? Đem cháu lại đây cho tôi". (18) Đức Giêsu quát
mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó.
(19) Bấy giờ
các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: "Tại sao chúng con đây lại
không trừ nổi tên quỷ ấy?" (20) Người nói với các ông: "Tại anh em
kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi,
thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia!" nó cũng sẽ
qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được". [(21) Giống quỷ này
không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện].
Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai
(22) Khi
thầy trò tụ họp ở miền Galilê, Đức Giêsu nói với các ông: "Con Người sắp
bị nộp vào tay người đời, (23) họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ
chỗi dậy". Các môn đệ buồn phiền lắm.
Đức Giêsu và ông Phêrô nộp thuế
(24) Khi
thầy trò tới Caphácnaum, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi ông
Phêrô: "Thầy các ông không nộp thuế sao?" (25) Ông đáp: "Có
chứ!" Ông về tới nhà, Đức Giêsu hỏi đón ông: "Anh Simon, anh nghĩ
sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu thuế? Con cái mình hay người
ngoài?" (26) Ông Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài". Đức Giêsu liền
bảo: "Vậy thì con cái được miễn. (27) Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra
biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh
sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy
và phần của anh".
2. Bài giảng về Giáo Hội
Chương 18
Ai là người lớn nhất trong Nước Trời?
(1) Lúc ấy,
các môn đệ lại gần hỏi Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, ai là người lớn nhất
trong Nước Trời?" (2) Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các
ông (3) và bảo: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như
trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời".
"Vậy ai
tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời".
Đừng làm cớ cho người ta sa ngã
(5)
"Còn ai tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là đón tiếp chính
Thầy. (6) Nhưng ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải
sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn
hơn. (7) Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có
những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã".
(8)
"Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà
cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị
ném vào lửa đời đời. (9) Nếu mắt anh làm cớ cho anh ngã, thì hãy móc mà ném đi;
thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa
hỏa ngụ"c.
(10) "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn
này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời
không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. [(11) Vì Con Người
đến để cứu cái gì đã hư mất].
Con chiên lạc
(12)
"Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không
để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? (13) và nếu may
mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn
là vì chín mươi chín con không bị lạc. (14) Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự
trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất".
Sửa lỗi anh em
(15)
"Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một
mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người
anh em mình. (16) Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai
người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng
nhân. (17) Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó
cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế".
(18)
"Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời
cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng
tháo cởi như vậy".
Hiệp lời cầu nguyện
(19)
"Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời
cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. (20) Vì ở
đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ".
Anh em tha thứ cho nhau
(21) Bấy
giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con
cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?"
(22) Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi
lần bảy".
Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót
(23) Vì thế,
Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình
thanh toán sổ sách. (24) Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ
mắc nợ vua mười ngàn nén vàng. (25) Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh
bán y cùng tất cả vợ con tài sản mà trả nợ. (26) Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp
mình xuống bái lạy: "Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo
trả hết". (27) Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về
và tha luôn món nợ. (28) Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người
đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả
nợ cho tao!" (29) Bấy giờ người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa
anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh". (30) Nhưng y
không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. (31) Thấy sự việc
xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu
đuôi câu chuyện. (32) Bấy giờ tôn chủ cho đòi y đến và bảo: "Tên đầy tớ
độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, (33) thì
đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương
xót ngươi sao?" (34) Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành
hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. (35) Ấy vậy, "Cha của Thầy ở trên trời
cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha
thứ cho anh em mình".
VI. NƯỚC TRỜI: TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN GẦN
1. Phần ký thuật
Chương 19
Câu hỏi về ly dị
(1) Khi Đức Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền
Galilê và đi đến miền Giuđê, bên kia sông Giođan. (2) Đám đông lũ lượt đi theo
Người, và Người đã chữa họ ở đó. (3) Những người Pharisêu đến gần Đức Giêsu để
thử Người. Họ nói: "Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do
nào không?" (4) Người đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao:
"Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ", (5) và
Người đã phán: "Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và
cả hai sẽ thành một xương một thịt". (6) Như vậy, họ không còn là hai,
nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người
không được phân ly". (7) Họ thưa với Người: "Thế sao ông Môsê lại
truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?" (8) Người bảo họ: "Vì các ông
lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu,
không thế đâu. (9) Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất
hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình".
Tự nguyện sống khiết tịnh
(10) Các môn
đệ thưa Người: "Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy
vợ còn hơn". (11) Nhưng Người nói với các ông: "Không phải ai cũng
hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu.
(12) Quả vậy, có những người là hoạn nhân vì từ lòng mẹ sinh ra đã như thế; có
những người là hoạn nhân vì bị người ta hoạn; và có những người là hoạn nhân do
họ tự ý sống như thế vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu".
Đức Giêsu và trẻ em
(13) Bấy giờ
người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng và cầu
nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. (14) Nhưng Đức Giêsu nói: "Cứ để trẻ em
đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như
chúng". (15) Người đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó.
Người thanh niên có nhiều của cải
(16) và kìa
có một người đến thưa Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì tốt để
được hưởng sự sống đời đời?" (17) Đức Giêsu đáp: "Sao anh hỏi tôi về
điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy
giữ các điều răn". (18) Người ấy hỏi: "Điều răn nào?" Đức Giêsu
đáp: "Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. (19)
Ngươi phải thờ cha kính mẹ", và "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu
chính mình". (20) Người thanh niên ấy nói: "Tất cả những điều đó, tôi
đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa?" (21) Đức Giêsu đáp: "Nếu anh
muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh
sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi". (22) Nghe lời đó,
người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Người giàu có khó vào Nước Trời
(23) Bấy giờ
Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu
có khó vào Nước Trời. (24) Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ
kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa". (25) Nghe nói vậy, các môn
đệ vô cùng sửng sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu?" (26) Đức
Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì điều đó không
thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được".
Phần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Đức Giêsu
(27) Bấy giờ
ông Phêrô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ
mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?" (28) Đức Giêsu đáp:
"Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời
tái sinh, khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười
hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Israen. (29) Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em,
chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn
được sự sống đời đời làm gia nghiệp".
(30)
"Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được
lên hàng đầu".
Chương 20
Dụ ngôn thợ làm vườn nho
(1)
"Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào
làm việc trong vườn nho của mình. (2) Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày
một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. (3) Khoảng giờ thứ ba, ông lại
trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. (4) Ông cũng bảo
họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ
công bằng". (5) Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại
trở ra và cũng làm y như vậy. (6) Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn
có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt
ngày không làm gì hết?" (7) Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng
tôi". Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!" (8)
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả
công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm
trước nhất". (9) Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và
lãnh được mỗi người một quan tiền. (10) Khi đến lượt những người vào làm trước
nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người
một quan tiền. (11) Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: (12) "Mấy người sau
chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là
những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu
đốt". (13) Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi
đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền
sao? (14) Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm
sau chót này cũng được bằng bạn đó. (15) Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý
định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra
ghen tức?" (16) Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những
kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. ["Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người
được chọn thì ít".]
Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ ba
(17) Lúc sắp
lên Giêrusalem, Đức Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi riêng với mình, và dọc đường,
Người nói với các ông: (18) "Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ
bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án tử hình Người, (19) sẽ nộp
Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào Thập giá, và ngày thứ
ba, Người sẽ chỗi dậy".
Bà mẹ của hai người con ông Dêbêđê
(20) Bấy giờ
bà mẹ của các con ông Dêbêđê đến gặp Đức Giêsu, có các con bà đi theo; bà bái
lạy và kêu xin Người một điều. (21) Người hỏi bà: "Bà muốn gì?" Bà
thưa: "Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một
người bên tả Thầy trong Nước Thầy". (22) Đức Giêsu bảo: "Các người
không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống
không?" Họ đáp: "Thưa uống nổi". (23) Đức Giêsu bảo: "Chén
của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy
không có quyền cho; Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được".
Ai làm lớn phải phục vụ
(24) Nghe
vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó. (25) Nhưng Đức Giêsu gọi các
ông lại và nói: "Anh em biết: thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị
dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. (26) Giữa anh em thì
không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh
em. (27) Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. (28) Cũng như
Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến
dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người".
Đức Giêsu chữa hai người mù tại Giêrikhô
(29) Khi Đức
Giêsu và môn đệ ra khỏi thành Giêrikhô, đám đông lũ lượt đi theo Người. (30) Và
kìa có hai người mù ngồi ở vệ đường, vừa nghe Đức Giêsu đi ngang qua đó, liền
kêu lên rằng: "Lạy Ngài, lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương chúng
tôi!" (31) Đám đông quát nạt, bảo họ im đi, nhưng họ càng kêu lớn hơn nữa:
"Lạy Ngài, lạy con vua Đavít, xin dủ lòng thương chúng tôi!" (32) Đức
Giêsu dừng lại, gọi họ đến và nói: "Các anh muốn tôi làm gì cho các
anh?" (33) Họ thưa: "Lạy Ngài, xin cho mắt chúng tôi được mở
ra!" (34) Đức Giêsu chạnh lòng thương, sờ vào mắt họ; tức khắc, họ nhìn
thấy được và đi theo Người.
Chương 21
Đức Giêsu vào Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia
(1) Khi Thầy
trò đến gần thành Giêrusalem và tới làng Bếtphaghê, phía núi Ôliu, Đức Giêsu
sai hai môn đệ và (2) bảo: "Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy
ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có lừa con bên cạnh. Các anh tháo dây ra
và dắt về cho Thầy. (3) Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần
đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay". (4) Sự việc đó xảy ra như thế để ứng
nghiệm lời ngôn sứ:
(5) Hãy bảo
thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng
lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ.
(6) Các môn
đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. (7) Các ông dắt lừa mẹ và lừa con
về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giêsu cỡi lên. (8) Một đám
người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành lá
mà rải lên lối đi. (9) Đám đông, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy:
Hoan hô Con
vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng
trời.
(10) Khi Đức
Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: "Ông này là
ai vậy?" (11) Đám đông trả lời: "Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ
Galilê đấy".
Đức Giêsu đuổi những người đang mua bán trong Đền Thờ
(12) Đức
Giêsu vào Đền Thờ, đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn
của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. (13) Rồi Người bảo
họ: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các
ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp". (14) Có những kẻ mù lòa, què
quặt đến với Người trong Đền Thờ, và Người đã chữa họ lành. (15) Nhưng các
thượng tế và kinh sư thấy những việc lạ lùng Người đã làm và thấy lũ trẻ reo hò
trong Đền Thờ: "Hoan hô Con vua Đavít!", thì tức tối (16) và nói với
Người rằng: "Ông có nghe chúng nói gì không?" Đức Giêsu đáp:
"Có; nhưng còn lời này, các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con
thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen? Rồi Người bỏ họ mà ra khỏi thành, đến Bêtania
và qua đêm tại đó.
Cây vả không sinh trái
(18) Sáng
sớm, khi vào thành, Người cảm thấy đói. (19) Trông thấy cây vả ở bên đường,
Người lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Người nói:
"Từ nay, không bao giờ mày có trái nữa!" Cây vả chết khô ngay lập
tức. (20) Thấy vậy, các môn đệ ngạc nhiên nói: "Sao cây vả lại chết khô
ngay lập tức như thế?" (21) Đức Giêsu trả lời: "Thầy bảo thật anh em,
nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều
Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: "Dời chỗ đi,
nhào xuống biển!", thì sự việc sẽ xảy ra như thế. (22) Tất cả những gì anh
em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được".
Câu hỏi về quyền bính của Đức Giêsu
(23) Đức
Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong
dân đến gần Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho
ông quyền ấy?" (24) Đức Giêsu đáp: "Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông
một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các
ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. (25) Vậy, phép rửa của ông Gioan
do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?" Họ mới nghĩ thầm: "Nếu mình
nói: "Do Trời", thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không
tin ông ấy?" (26) Còn nếu mình nói: "Do người ta", thì lại sợ
đám đông, vì ai nấy đều cho ông Gioan là một ngôn sứ". (27) Họ mới trả lời
Đức Giêsu: "Chúng tôi không biết". Người cũng nói với họ: "Tôi
cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều
ấy".
Dụ ngôn hai người con
(28) Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với
người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho". (29) Nó
đáp: "Con không muốn đâu!" Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. (30)
Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: "Thưa ngài, con
đây!" nhưng rồi lại không đi. (31) Trong hai người con đó, ai đã thi hành
ý muốn của người cha?" Họ trả lời: "Người thứ nhất". Đức Giêsu
nói với họ: "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái
điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. (32) Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công
chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và
những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không
chịu hối hận mà tin ông ấy".
Dụ ngôn những tá điền sát nhân
(33) Các ông
hãy nghe một dụ ngôn khác: "Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung
quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp
canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. (34) Gần đến mùa hái nho, ông
sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. (35) Bọn tá điền bắt các đầy tớ
ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. (36) Ông lại sai
một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy.
(37) Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng:
"Chúng sẽ nể con ta". (38) Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì
bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia
tài nó!" (39) Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và
giết đi. (40) Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền
kia?" (41) Họ đáp: "Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho
các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông".
(42) Đức Giêsu bảo họ: "Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh
sao?
Tảng đá thợ
xây nhà loại bỏ lại trở nên tảng đá góc tường. Đó chính là công trình của Chúa,
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
(43) Bởi đó,
tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các
ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi. [(44) Ai ngã
xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát
thịt]".
(45) Nghe
những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về
họ. (46) Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ đám đông, vì đám đông cho Người là
một ngôn sứ.
Chương 22
Dụ ngôn tiệc cưới
(1) Đức
Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: (2) Nước Trời cũng giống như chuyện
một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. (3) Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan
khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. (4)
Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: "Hãy thưa với quan khách
đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi
sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!" (5) Nhưng quan khách không thèm
đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, (6) còn những
kẻ khác lại bắt các đây tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. (7) Nhà vua liền
nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố
của chúng. (8) Rồi nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà
những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. (9) Vậy các ngươi đi ra các nẻo
đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới". (10) Đầy tớ liền đi ra các nẻo
đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã
đầy thực khách.
(11)
"Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người
không mặc y phục lễ cưới, (12) mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào
đây mà lại không có y phục lễ cưới?" Người ấy câm miệng không nói được gì.
(13) Bấy giờ, nhà vua bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại,
quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!
(14) Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít".
Nộp thuế cho Xêda
(15) Bấy giờ
những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ
lời mà mắc bẫy.
(16) Họ sai
các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê, đến nói với Đức Giêsu
rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà
dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề
ngoài mà đánh giá người ta. (17) Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp
thuế cho Xêda hay không?"
(18) Nhưng
Đức Giêsu biết họ có ác ý, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi,
hỡi những kẻ giả hình! (19) Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi!" Họ liền
đưa cho Người một đồng bạc. (20) Và Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này
là của ai đây?" (21) Họ đáp: "Của Xêda". Bấy giờ, Người bảo họ:
"Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
(22) Nghe vậy, họ ngạc nhiên và để Người lại đó mà đi.
Kẻ chết sống lại
(23) Hôm đó,
có những người thuộc nhóm Xađốc, đến gặp Đức Giêsu, Nhóm này chủ trương không
có sự sống lại. Họ hỏi Người: (24) "Thưa Thầy, ông Môsê có nói: Nếu ai
chết mà không có con, thì anh hay em của người ấy phải cưới lấy người vợ góa,
để gầy dựng một dòng giống cho anh hay em mình. (25) Mà, trong chúng tôi, nhà
kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ rồi chết, và vì không có con nối
dòng, nên để vợ lại cho em. (26) Người thứ hai, rồi người thứ ba, cho đến hết
bảy người, người nào cũng vậy. (27) Sau hết, người đàn bà ấy cũng chết. (28)
Vậy, trong ngày sống lại, bà ấy sẽ là vợ ai trong số bảy người, vì tất cả đều
đã lấy bà?" (29) Đức Giêsu trả lời họ: "Các ông lầm, vì không biết
Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. (30) Quả thế, trong ngày
sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần
trên trời. (31) Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc lời Thiên
Chúa đã phán cùng các ông sao? (32) Người phán: Ta là Thiên Chúa của Ápraham,
Thiên Chúa của Ixaác và Thiên Chúa của Giacóp. Người không phải là Thiên Chúa
của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống". (33) Đám đông kinh ngạc khi nghe lời
Người dạy.
Điều răn trọng nhất
(34) Khi
nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng, thì những người
Pharisêu họp nhau lại. (35) Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu
để thử Người rằng: (36) "Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là
điều răn lớn nhất?" (37) Đức Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. (38) Đó là
điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. (39) Còn điều răn thứ hai, cũng giống
điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (40) Tất cả Luật
Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy".
Đức Kitô là Con và cũng là Chúa của vua Đavít
(41) Những
người Pharisêu đang tụ tập thì Đức Giêsu hỏi họ (42) rằng: "Các ông nghĩ
sao về Đấng Kitô? Người là con của ai?" Họ thưa: "Con của vua
Đavít". (43) Người hỏi: "Vậy tại sao vua Đavít, được Thần Khí soi
sáng, lại gọi Người là Chúa Thượng, khi nói rằng:
(44) Đức
Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hưu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao
địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con?
(45)
"Vậy nếu vua Đavít gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì làm sao Đấng Kitô lại
là con vua ấy được?" (46) Không ai đáp lại Người được một tiếng. Và từ
ngày ấy, chẳng ai còn dám chất vấn Người nữa.
Chương 23
Các kinh sư và người Pharisêu giả hình
(1) Bấy giờ
Đức Giêsu nói với đám đông và các môn đệ Người rằng: (2) "Các kinh sư và
các người Pharisêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. (3) Vậy, những gì họ
nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ
nói mà không làm. (4) Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng
chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. (5) Họ làm mọi việc cốt để cho
thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật
dài. (6) Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường,
(7) ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là
"rápbi".
(8)
"Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "rápbi", vì anh em chỉ
có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. (9) Anh em cũng đừng gọi
ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.
(10) Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị
lãnh đạo, là Đức Kitô. (11) Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người
phục vụ anh em. (12) Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ
được tôn lên.
Đức Giêsu khiển trách các kinh sư và người Phariêu
(13)
"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người
khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ
muốn vào, các người cũng không để họ vào. [(14) Khốn cho các người, hỡi các
kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà góa,
lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án
nghiêm khắc hơn].
(15)
"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người
rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo
rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các người.
(16) "Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người
bảo: "Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng
trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc". (17) Đồ ngu si mù quáng! Thế thì
vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? (18) Các
người còn nói: "Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai
chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề thì bị ràng buộc". (19) Đồ mù quáng! Thế
thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn?
(20) Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề.
(21) Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. (22) Và
ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.
(23)
"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người
nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng
nhất trong Lề Luật là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm các điều này
mà không được bỏ các điều kia. (24) Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con
muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.
(25)
"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người
rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và
vô độ. (26) Hỡi người Pharisêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho
sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.
(27)
"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phrisêu giả hình! Các người
giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương
người chết và đủ mọi thứ ô uế. (28) Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ
công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!
(29)
"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người
xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. (30) Các người nói:
"Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông
đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ". (31) Như vậy, các người tự làm
chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. (32)
Thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!
Tội ác và hình phạt
(33)
"Đồ mảng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hỏa
ngục? (34) Vì thế, này tôi sai ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng các
người: các người sẽ giết và đóng đinh người này vào thập giá, đánh đòn người
kia trong hội đường và lùng bắt họ từ thành này đến thành khác. (35) Như vậy,
máu của tất cả những người công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu
các người từ máu ông Aben, người công chính, đến máu ông Dacaria, con ông
Bêrêkia, mà các người đã giết giữa đền thánh và bàn thờ. (36) Tôi bảo thật các
người: tất cả những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này.
Đức Giêsu thương tiếc thành Giêrusalem
(37)
"Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được
sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập
hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. (38) Thì này, nhà các ngươi sẽ
bị bỏ hoang mặc cho các ngươi. (39) Thật vậy, Ta nói cho các ngươi hay, từ nay
các ngươi sẽ không thấy Ta nữa, cho đến khi các ngươi nói:
Chúc tụng
Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!"
2. Bài giảng về thời cánh chung
Chương 24
Nhập đề
(1) Khi Đức
Giêsu từ trong Đền Thờ đi ra, thì các môn đệ của Người lại gần chỉ cho Người
xem công trình kiến trúc Đền Thờ. (2) Nhưng Người nói: "Anh em nhìn thấy
tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ không còn
tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ". (3) Sau đó, lúc
Người ngồi trên núi Ôliu, các môn đệ tới gặp riêng Người và thưa: "Xin
Thầy nói cho chúng con biết bao giờ những sự việc ấy sẽ xảy ra, và điềm gì báo
trước cuộc quang lâm của Thầy và báo trước tận thế".
Những cơn đau đớn khởi đầu
(4) Đức
Giêsu đáp: "Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, (5) vì sẽ có
nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính Ta đây là Đấng Kitô", và
họ sẽ lừa gạt được nhiều người. (6) Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc
giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là
chung cục. (7) Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước
nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi. (8) Nhưng tất
cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn.
(9)
"Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta
sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. (10) Bấy giờ sẽ
có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. (11) Sẽ có nhiều
ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. (12) Vì tội ác gia tăng, nên
lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. (13) Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng,
kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
(14)
"Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm
chứng cho tất cả các dân ngoại được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng".
Cơn gian nan khốn khổ tại Giêrusalem
(15)
"Vậy, khi anh em thấy đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại mà ngôn sứ
Đanien đã nói đến - người đọc hãy lo mà hiểu! - (16) thì bấy giờ ai ở miền
Giuđê, hãy trốn lên núi, (17) ai ở trên sân thượng thì đừng xuống lấy đồ đạc
trong nhà, (18) ai ở ngoài đồng, đừng trở lại phía sau lấy áo choàng của mình.
(19) Khốn cho những người mang thai và những người đang cho con bú trong những
ngày đó! (20) Anh em hãy cầu xin, để cuộc chạy trốn đừng xảy ra vào mùa đông
hay ngày sabát. (21) Vì khi ấy sẽ có cơn gian nan khốn khổ đến mức từ thuở khai
thiên lập địa cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra
như vậy nữa. (22) Nếu những ngày ấy không được rút ngắn lại, thì không ai được
cứu thoát; nhưng, vì những kẻ được chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn.
(23)
"Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: "Này, Đức Kitô ở đây" hoặc
"ở đó", anh em đừng có tin. (24) Thật vậy, sẽ có những Kitô giả và
ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến
nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn, nếu có thể. (25) Thầy báo
trước cho anh em đấy!
Cuộc quang lâm của Con Người
(26)
"Vậy, nếu người ta bảo anh em: "Này, Người ở trong hoang địa",
anh em chớ ra đó; "Kìa, Người ở trong phòng kín", anh em cũng đừng
tin. (27) Vì, như chớp lóe ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế
nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. (28) Xác chết nằm đâu,
diều hâu tụ đó.
Hiện tượng của ngày Quang Lâm
(29)
"Ngay sau những ngày gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng
không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời
bị lay chuyển. (30) Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy
giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh
hiển ngự giá mây trời mà đến. (31) Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa
vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời
này đến chân trời kia.
Thí dụ cây vả
(32)
"Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó mềm ra và trổ lá, thì
anh em biết là mùa hè đã đến gần. (33) Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều đó,
anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. (34) Thầy bảo thật
anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. (35) trời đất
sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. (36) Còn về ngày và giờ
đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng
không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.
Phải canh thức và sẵn sàng
(37) "Quả thế, thời ông Nôê thế nào, thì cuộc quang lâm của Con
Người cũng sẽ như vậy. (38) Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ
vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu. (39) Họ không
hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Cuộc quang lâm
của Con Người cũng sẽ như vậy. (40) Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng,
thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; (41) hai người đàn bà đang kéo
cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.
(42)
"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em
đến. (43) Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ
đến, hẵn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. (44) Cho nên anh em
cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con
Người sẽ đến.
Dụ ngôn người đầy tớ trung tín
(45)
"Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên
coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc? (46) Phúc
cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà còn thấy anh ta đang làm như vậy. (47) Thầy bảo
thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. (48) Nhưng
nếu tên đầy tớ xấu xa ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới về", (49) thế
rồi hắn bắt đầu đánh đập các đồng bạn, và chè chén vói những bọn say sưa, (50)
chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không chờ, vào giờ hắn không biết, (51)
và ông sẽ loại hắn ra, bắt chung số phận với những tên đạo đức giả: ở đó, người
ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Chương 25
Dụ ngôn mười trinh nữ
(1)
"Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra
đón chú rể. (2) trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. (3) Quả
vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. (4) Còn những cô khôn thì vừa
mang đèn vừa mang chai dầu theo. (5) Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi,
rồi ngủ cả. (6) Nửa đêm, có tiếng la lên: "Kìa chú rể, ra đón đi!"
(7) Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. (8) Các cô
dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu của các
chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!" (9) Các cô khôn đáp: "Sợ không
đủ cho chúng em và các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn". (10)
Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo
chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. (11) Sau cùng, mấy trinh nữ
kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!"
(12) Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!"
(13) Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Dụ ngôn những nén bạc
(14)
"Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình
đến mà giao phó của cải mình cho họ. (15) Ông cho người này năm nén, người kia
hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi.
Lập tức, (16) người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây
lời được năm nén khác. (17) Cũng vậy, người đã lãnh hai nén gây lời được hai
nén khác. (18) Còn người đã lãnh một nén thì đi đào lỗ chôn dấu số bạc của chủ.
(19) Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến thanh toán sổ
sách với họ. (20) Người đã lãnh năm nén tiến lại gần, đưa năm nén khác, và nói:
"Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén
khác đây". (21) Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi người đầy tớ
tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt
anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!" (22) Người
đã lãnh hai nén cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho
tôi hai nén, tôi đã gây lời được hai nén khác đây". (23) Ông chủ nói với
người ấy: "Khá lắm! hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc
ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà
hưởng niềm vui của chủ anh!" (24) Rồi người đã lãnh một nén cũng tiến lại
gần và nói: "Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không
gieo, thu nơi không vãi. (25) Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của
ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!" (26) Ông chủ đáp: "Hỡi tên
đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không
vãi, (27) thì đáng lý ngươi phải gởi số bạc của ta cho các chủ ngân hàng, để
khi ta đến, ta thu hồi của thuộc về ta cùng với số lời chứ! (28) Vậy các ngươi
hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười nén. (29) Vì phàm ai đã
có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có,
cũng sẽ bị lấy đi. (30) Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm
bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Cuộc phán xét chung
(31)
"Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo
hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. (32) Các dân thiên hạ
sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử
tách biệt chiên với dê. (33) Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở
bên trái. (34) Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng:
"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho
các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. (35) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho
ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước;
(36) Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom;
Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm". (37) bấy giờ những người công chính sẽ
thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn,
khát mà cho uống; (38) có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc
trần truồng mà cho mặc? (39) Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc
ngồi tù, mà đến thăm đâu?" (40) Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng:
"Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những
anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". (41)
Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa
kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và
các sứ thần của nó. (42) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các
ngươi đã không cho uống; (43) Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta
trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng
thăm nom". (44) Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa,
có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc là trần
truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?" (45) Bấy giờ
Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không
làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không
làm cho chính Ta vậy". (46) Thế là họ sẽ ra đi, bọn này để chịu cực hình
muôn kiếp, còn những người công chính, để hưởng sự sống muôn đời".
VII. THƯƠNG KHÓ VÀ PHỤC SINH
Chương 26
Âm mưu hại Đức Giêsu
(1) Khi Đức
Giêsu giảng dạy tất cả những điều ấy xong, Người bảo các môn đệ của Người rằng:
(2) "Anh em biết còn hai ngày nữa là đến lễ Vượt Qua, và Con Người sẽ bị
nộp để chịu đóng đinh vào thập giá".
(3) Lúc ấy,
các thượng tế và kỳ mục trong dân nhóm họp tại dinh của vị thượng tế tên là
Caipha, (4) và cùng nhau quyết định dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi. (5)
Nhưng họ lại nói: "Không nên làm vào chính ngày lễ, kẻo gây náo động trong
dân".
Đức Giêsu được xức dầu thơm tại Bêtania
(6) Đức
Giêsu đang ở làng Bêtania tại nhà ông Simon Cùi, (7) thì có một người phụ nữ
đến gần Người, mang theo một bình bạch ngọc, đựng một thứ dầu thơm đắt giá. Cô
đổ dầu thơm trên đầu Người, lúc Người đang dùng bữa. (8) Thấy vậy, các môn đệ
lấy làm bực tức nói: "Sao lại phí của như thế? (9) Dầu đó có thể bán được
nhiều tiền mà cho người nghèo". (10) Biết thế, Đức Giêsu bảo các ông:
"Sao lại muốn gây chuyện với người phụ nữ này? Quả thật, cô ấy vừa làm cho
Thầy một việc nghĩa. (11) Người nghèo thì lúc nào anh em cũng có với anh em;
còn Thầy, thì không phải lúc nào anh em cũng có đâu! (12) Cô ấy đổ dầu thơm
trên mình Thầy để mai táng Thầy đấy. (13) Thầy bảo thật anh em: khắp thế gian,
Tin Mừng này được loan báo ở đâu, người ta cũng kể lại việc cô vừa làm mà nhớ
tới cô".
Giuđa nộp Đức Giêsu
(14) Bấy
giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giuđa Ítcariốt, đi gặp các thượng tế
(15) mà nói: "Quý vị muốn cho tôi bao nhiêu? Tôi đây sẽ nộp ông ấy cho quý
vị". Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. (16) Từ lúc đó, hắn cố tìm
dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu.
Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua
(17) Ngày
thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu:
"Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?" (18) Người
bảo: "Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy:
"Thầy nhắn: thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ
Vượt Qua với các môn đệ của Thầy". (19) Các môn đệ làm y như Đức Giêsu đã
truyền, và dọn lễ Vượt Qua.
Đức Giêsu tiên báo Giuđa sẽ nộp Thầy
(20) Chiều
đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. (21) Đang bữa ăn, Người nói:
Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy". (22) Các môn đệ
buồn rầu quá sức, bắt đầu lần lượt hỏi Người: "thưa Ngài, chẳng lẽ con
sao?" (23) Người đáp: "Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là
kẻ nộp Thầy. (24) Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng
khốn cho người nào nộp Con Người: thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" (25)
Giuđa, kẻ nộp Người cũng hỏi: "Rápbi, chẳng lẽ con sao?" Người trả
lời: "Chính anh đó!".
Đức Giêsu lập phép Thánh thể
(26) Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi
bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình
Thầy". (27) Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và
nói: "Tất cả anh em hãy uống chén này, (28) vì đây là máu Thầy, máu Giao
Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội. (29) Thầy bảo cho anh em biết: từ nay,
Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày ấy, ngày Thầy
được cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy".
Đức Giêsu tiên báo thánh Phêrô sẽ chối Thầy
(30) Hát
thánh vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. (31) Bấy giờ Đức
Giêsu nói với các ông: "Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có
lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. (32)
Nhưng sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em". (33) Ông
Phêrô liền thưa: "Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng
chẳng bao giờ vấp ngã". (34) Đức Giêsu bảo ông: "Thầy bảo thật anh:
nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần". (35) Ông Phêrô
lại nói: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy". Tất
cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.
Đức
Giêsu cầu nguyện tại vườn Ghếtsêmani
(36) Bấy giờ
Đức Giêsu đi cùng với các ông đến một thửa đất gọi là Ghếtsêmani. Người nói với
các môn đệ: "Anh em ngồi lại đây, trong lúc Thầy đi đến đàng kia cầu
nguyện". (37) Rồi Người đưa ông Phêrô và hai người con ông Dêbêđê đi theo.
Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. (38) Bấy giờ Người nói với các ông:
"Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với
Thầy". (39) Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng:
"Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý
con, mà xin theo ý Cha". (40) Rồi Người đến chỗ các môn đệ, thấy các ông
đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: "Thế
ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? (41) Anh em hãy canh
thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái,nhưng
thể xác lại yếu đuối". (42) Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói:
"Lạy Cha, nếu chén này không thể rời khỏi con, nhất định con phải uống,
thì xin cho ý Cha được thể hiện". (43) Rồi Người lại đến, thấy các môn đệ
vẫn đang ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. (44) Người để mặc các ông mà đi cầu nguyện
lần thứ ba, nói lại cũng một lời đó. (45) Bấy giờ Người đến chỗ các môn đệ và
nói với các ông: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người
bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. (46) Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã
tới!"
Đức Giêsu bị bắt
(47) Người
còn đang nói, thì Giuđa, một trong Nhóm Mười Hai, đã đến. Cùng đi với hắn, có
cả một đám người đông đảo mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế và kỳ
mục trong dân sai đến. (48) kẻ nộp Người đã cho họ một dấu hiệu, hắn dặn rằng:
"Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!" (49) Ngay lúc
đó, Giuđa tiến lại gần Đức Giêsu và nói: "Rápbi, xin chào Thầy!", rôi
hôn Người. Bấy giờ họ tiến đến, tra tay bắt Đức Giêsu. (51) Và kìa, một trong
những kẻ theo Đức Giêsu liền vung tay tuốt gươm của mình ra, chém phải tên đầy
tớ của thượng tế, làm nó đứt tai. (52) Đức Giêsu bảo người ấy: "Hãy xỏ
gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. (53) hay anh tưởng là
Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười
hai đạo binh thiên thần! (54) Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao
được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy". (55) Vào giờ ấy Đức Giêsu
nói với đám đông: "Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến như để bắt tôi một
tên cướp sao? Ngày ngày tôi vẫn ngồi giảng dạy ở Đền Thờ thì các ông không bắt.
(56) Nhưng toàn bộ việc này xảy ra là để ứng nghiệm những lời chép trong Sách
Các Ngôn Sứ". Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết.
Đức Giêsu ra trước Thượng Hội Đồng
(57) Họ bắt
Đức Giêsu, rồi điệu đến thượng tế Caipha. Các kinh sư và kỳ mục đã tề tựu sẵn
đó. (58) Ông Phêrô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong
ngồi với bọn nha dịch, xem kết cuộc ra sao.
(59) Còn các
thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để
lên án tử hình. (60) Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm
chứng gian. Sau cùng, có hai người bước ra, (61) khai rằng: "Tên này đã
nói: tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất
lại". (62) Và vị thượng tế đứng lên hỏi Đức Giêsu: "Ông không nói lại
được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?" (63) Nhưng Đức Giêsu
vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Người: "Tôi nại đến Thiên Chúa hằng
sống, mà truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô
Con Thiên Chúa không? (64) Đức Giêsu trả lời: "Chính ngài nói đó. Hơn nữa,
tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng
Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến". (65) Bấy giờ vị thượng tế liền xé
áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa?
Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, (66) quý vị nghĩ sao?"
Họ liền đáp: "Hắn đáng chết!"
(67) Rồi họ
khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người (68) và nói: "Ông
Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?"
Thánh Phêrô chối Thầy
(69) Còn ông
Phêrô đang ngồi ngoài sân, thì có một người tớ gái đến bên ông và nói: "Cả
bác nữa, bác cũng đã theo ông Giêsu, người Galilê đó chứ gì?" (70) Ông
liền chối trước mặt mọi người mà nói: "Tôi không biết cô nói gì!"
(71) Ông đi ra đến cổng, thì một người tớ gái khác thấy ông, liền nói với những
người ở đó: "Bác này cũng theo ông Giêsu người Nadarét đấy". (72)
Nhưng ông Phêrô lại thề mà chối: "Tôi không biết người ấy". (73) Một
lát sau, những người đứng đó xích lại gần ông Phêrô mà nói: "Đúng là bác
cũng thuộc bọn họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay". (74) Bấy giờ
ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: "Tôi không biết
người ấy". Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. (75) Ông Phêrô sực nhớ lời Đức
Giêsu đã nói: Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần". Ông ra ngoài,
khóc lóc thảm thiết.
Chương 27
Đức Giêsu bị giải đến tổng trấn Philatô
(1) Trời vừa
sáng, tất cả các thượng tế và kỳ mục trong dân cùng nhau bàn kế hại Đức Giêsu,
để xử tử Người. (2) Sau đó, họ trói Người lại và giải đi nộp cho tổng trấn
Philatô.
Giuđa thắt cổ
(3) Bấy giờ,
Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc
trả lại cho các thượng tế và kỳ mục (4) mà nói: "Tôi đã phạm tội nộp người
vô tội, khiến Người phải chết oan". Nhưng họ đáp: "Can gì đến chúng
tôi. Mặc kệ anh!" (5) Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ rồi lui ra và đi thắt
cổ. (6) Các thượng tế lượm lấy số bạc ấy mà nói: "Không được phép bỏ vào
quỷ Đền Thờ, vì đây là giá máu". (7) Sau khi bàn định với nhau, họ dùng
tiền đó tậu "Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm" để làm nơi chôn cất khách ngoại
kiều. (8) Vì vậy mà thửa ruộng ấy gọi là "Ruộng Máu" cho đến ngày
nay. (9) Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: "Họ đã lượm lấy ba mươi
đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Ítraen đã đặt khi đánh giá Người.
(10) Và họ lấy số bạc đó mà mua "Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm", theo những
điều Đức Chúa đã truyền cho tôi".
Đức Giêsu ra trước tòa tổng trấn Philatô
(11) Đức
Giêsu bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Người: "Ông là vua dân
Dothái sao?" Đức Giêsu trả lời: "Chính ngài nói đó". (12) Nhưng
khi các thượng tế và kỳ mục tố Người, thì Người không trả lời một tiếng. (13)
Bấy giờ ông Philatô hỏi Người: "Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng
chống lại ông đó sao?" (14) Nhưng Đức Giêsu không trả lời ông về một điều
nào, khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên.
(15) Vào mỗi
dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho đám đông một người tù, tùy ý họ
muốn. (16) Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Baraba. (170 Vậy khi
đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Philatô nói với họ: "Các ngươi muốn
ta phóng thích ai cho các người đây? Baraba hay Giêsu, cũng gọi là Kitô?"
(18) Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người.
(19) Lúc
tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: Ông đừng nhúng
tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, trong chiêm bao, tôi đã khổ
nhiều vì ông ấy".
(20) Nhưng các
thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Baraba mà giết Đức Giêsu. (21) Tổng trấn hỏi họ: "Trong hai tên
này, các ngươi muốn ta tha ai cho các ngươi?" Họ thưa: "Baraba!"
(22) Tổng trấn Philatô nói tiếp: "Thế còn ông Giêsu, cũng gọi là Kitô, ta
sẽ làm gì đây?" Mọi người đồng thanh: "Đóng đinh nó vào thập
giá!" (23) Tổng trấn lại nói: "Thế ông ấy đã làm điều gì gian
ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá!" (24) Tổng trấn
Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay
trước mặt đám đông mà nói: "Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các
ngươi liệu lấy!" (25) Toàn dân đáp lại: "Máu hắn đổ xuống đầu chúng
tôi và con cháu chúng tôi!" (26) Bấy giờ, tổng trấn phóng thích tên Baraba
cho họ, còn Đức Giêsu, thì sau khi truyền đánh đòn, ông trao cho họ đóng đinh
vào thập giá.
Đức Giêsu phải đội vòng gai
(27) Bấy giờ
lính của tổng trấn đem Đức Giêsu vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh
Người. (28) Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ. (29) Rồi
kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người
một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: "Vạn tuế Đức Vua
dân Dothái!" (30) Rồi chúng khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy mà đập vào
đầu Người. (31) Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra và cho Người mặc lại áo
của mình, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.
Đức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá
(32) Đang đi
ra, thì chúng gặp một người Kyrênê, tên là Simon; chúng bắt ông vác thập giá
của Người. (33) Khi đến nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Đồi Sọ, (34) chúng cho
người uống rượu pha mật đắng, nhưng Người chỉ nếm một chút mà không chịu uống.
(35) Đóng đinh Người vào thập giá xong, chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia
nhau. (36) Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ Người.
(37) Phía
trên đầu Người, chúng đặt bản án xử tội Người viết rằng: "Người này là
Giêsu, vua người Dothái". (38) Bấy giờ, có hai tên cướp cùng bị đóng đinh
với Người, một tên bên phải, một tên bên trái.
Đức Giêsu bị nhục mạ
(39) Kẻ qua
người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu (40) vừa nói: "Mi là kẻ phá được
Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con
Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!" (41) Các thượng tế, kinh sư
và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: (42) "Hắn cứu được thiên hạ, mà
chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Ítraen! bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi,
thì chúng ta tin hắn liền! (43) Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu
hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
(44) Cả những tên cướp cùng bị đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
Đức Giêsu trút linh hồn
(45) Từ giờ
thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. (46) Vào giờ thứ
chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: "Êli, Êli, lêmasabácthani", nghĩa là
"Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (47)
Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Hắn ta gọi ông Êlia!" (48)
Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc
vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. (49) Còn những người khác lại bảo:
"Khoan đã, để xem ông Êlia có đến cứu hắn không!" (50) Đức Giêsu lại
kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.
(51) Và kìa,
bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá
vỡ. (52) Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được chỗi dậy.
(53) Sau khi Chúa chỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra
với nhiều người. (54) Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng
và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói: "Quả
thật ông này là Con Thiên Chúa".
(55) Ở đó,
cũng có nhiều người phụ nữ nhìn xem từ đàng xa. Các bà này đã theo Đức Giêsu từ
Galilê để giúp đỡ Người. (56) trong số đó, có bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ các
ông Giacôbê và Giôxép, và bà mẹ các con ông Dêbêđê.
Mai táng Đức Giêsu
(57) Chiều
đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành Arimathê, tên là
Giôxép, và cũng là môn đệ Đức Giêsu. (58) Ông đến gặp ông Philatô để xin thi
hài Đức Giêsu. Bấy giờ tổng trấn Philatô ra lệnh trao trả thi hài cho ông. (59)
Khi đã nhận thi hài, ông Giôxép lấy tấm vải gai sạch mà liệm, (60) và đặt vào
ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông. Ông lăn tảng đá to lấp cửa
mồ, rồi ra về. (61) Còn bà Maria Mácđala và một bà Maria khác ở lại đó, ngồi
đối diện vào mồ.
Lính căn mồ
(62) Hôm
sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pharisêu kéo
nhau đến ông Philatô, (63) và nói: "Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm
ấy khi còn sống có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ chỗi dậy". (64) Vậy xin
quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắm đến lấy
trộm hắn đi, rồi phao với dân là hắn đã từ cõi chết chỗi dậy. Và như thế,
chuyện bịp bợm cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước". (65) Ông
Philatô bảo họ: "Thì có sẵn lính đó, các người hãy đi mà canh giữ theo
cách các ngươi biết!" (66) thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá
và cắt lính canh mồ.
Chương
28
Ngôi mộ trống
(1) Sau ngày
sabát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mácđala và một bà
Maria khác, đi viếng mộ. (2) Và kìa, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ
trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; (3) diện mạo người như ánh
chớp, và y phục trắng như tuyết. (4) Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy và
hóa ra như chết. (5) Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: "Phần các bà,
các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. (6) Người
không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ
Người đã nằm, (7) rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã chỗi
dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được
thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay". (8) Các bà vội vã rời khỏi
mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức
Giêsu hay.
Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ
(9) Và kìa
đức Giêsu đón gặp các bà và nói: "Chào chị em!" Các bà tiến lại gần
Người, ôm chầm lấy chân, và bái lạy Người. (10) Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các
bà: "Chị em đừng sợ! về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ
được thấy Thầy ở đó".
Các thượng tế lừa đảo
(11) Các bà
đang đi, thì kìa mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng
tế biết mọi việc đã xảy ra. (12) các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi
bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, (13) và bảo: "Các anh hãy nói như
thế này: Ban đem đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm hắn
đi. (14) nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với
quan và lo cho các anh được vô sự". (15) Lính đã nhận tiền và làm theo lời
họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Dothái cho đến ngày nay.
Đức Giêsu hiện ra tại Galilê, và sai môn đệ đi đến với muôn dân
(16) Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã
truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông
lại hoài nghi. (18) Đức Giêsu đến gần, nói với các ông: "Thầy đã được trao
toàn quyền trên trời dưới đất. (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, (20) dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. và đây,
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".
=====//////=====
Lm Giuse Phạm Thanh
Minh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét