GIÁO LÝ KINH THÁNH
DẪN NHẬP
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ
BỐ CỤC
Dựa trên các
điểm mốc ở ba phương diện: di chuyển theo địa dư, tiến độ mặc khải mầu nhiệm
Đức Giêsu và lối kết cấu bản văn, người ta có thể nhận ra khá rõ bố cục của
Máccô. Chúng tôi dựa theo X. Léon-Dufour Introduction à la Bible, t.III, vol.2,
trang 49.
- Ông Gioan
Tẩy Giả rao giảng (Chương 1,1-8)
- Đức Giêsu
chịu phép rửa và được tuyên bố là Con Thiên Chúa (Chương 1,9-11)
- Đức Giêsu
chịu cám dỗ (Chương 1,12-13)
1. Đức Giêsu
và dân chúng (Chương 1,14-3,6)
- Dẫn nhập:
Tóm lược hoạt động rao giảng (Chương 1,14-15) và việc gọi các môn đệ đầu tiên
(Chương 1,16-20)
- Một ngày ở
Caphácnaum (1,21-38); một câu tóm kết (Chương 1,39) và một phụ trương (Chương
1,40-44); một câu tóm kết (Chương 1,45)
- Năm cuộc
tranh luận (Chương 2,1-3,5)
- Kết luận:
phe Pharisêu quyết định giết Đức Giêsu (Chương 3,6)
2. Đức Giêsu
và người thân thuộc (Chương 3,7-6,6)
- Dẫn nhập:
Tóm lược hoạt động chữa bệnh và trừ tà (Chương 3,7-12); việc lập Nhóm Mười Hai
(Chương 3,7-19)
- Trình
thuật: a) Các thân nhân coi Đức Giêsu là mất trí (Chương 3,20-21); b) Các kinh
sư coi Đức Giêsu là người bị quỷ ám (Chương 3,22); c) Đức Giêsu trả lời (Chương
3,23-35)
- Các dụ
ngôn (Chương 4,1-34)
- Ba phép lạ
lớn (Chương 4,35-5-43)
- Kết luận:
Dân làng Nadarét không nhận biết Đức Giêsu (Chương 6,1-6)
3. Đức Giêsu
và các môn đệ (Chương 6,6-8,30)
- Dẫn nhập:
Tóm lược hoạt động rao giảng (Chương 6,6); các Tông Đồ được sai đi (Chương
6,7-13) và trở về (Chương 6,30); mối lo của Hêrôđê về Đức Giêsu và trình thuật
về cái chết của ông Gioan Tẩy Giả (Chương 6,14-29)
- Phép lạ
bánh hóa nhiều lần thứ nhất (Chương 6,31-44) và chuỗi phép lạ, tranh luận tiếp
theo (Chương 6,45-7,37)
- Phép lạ
bánh hóa nhiều lần thứ hai (Chương 8,1-10); tranh luận với người Pharisêu
(Chương 8,11-13); dạy dỗ các môn đệ (Chương 8,14-21); chữa người mù (Chương
8,22-26)
- Kết luận:
Lời tuyên xưng của ông Phêrô và chỉ thị giữ bí mật (Chương 8,27-30)
1. Con đường của Con Người (Chương 8,31-16,8): ba lần loan báo cuộc
Thương Khó và Phục Sinh, kèm theo ba lần giáo huấn về số phận các môn đệ.
* Loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ nhất và phản ứng của ông Phêrô (Chương 8,31-33)
a/ Giáo huấn (Chương 8,34-9,1)
b/ Bổ túc:
- Đức Giêsu
biến đổi hình dạng và nói về ông Êlia (Chương 9,2-13);
- Đức Giêsu
chữa người động kinh (Chương 9,14-29)
b)Loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ hai (Chương 9,30-32)
a/ Giáo huấn
về phục vụ và vài danh ngôn (Chương 9,33-50)
b/ Bổ túc:
- ly dị
(Chương 10,1-12)
- các trẻ em
(Chương 10,13-16)
- của cải
(Chương 10,17-27
- phần
thưởng (Chương 10,28-31)
c) Loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ ba (Chương 10,32-34)
a/ Giáo huấn
nhân chuyện hai người con ông Dêbêđê (Chương 10,35-45)
b/ Bổ túc:
ngươi mù ở Giêrikhô (Chương 10,46-52)
2. Phán xét Giêrusalem (Chương 11,1-13,37)
* Phán xét bằng hành động và lời nói:
a) Đức Giêsu
vào Giêrusalem (Chương 11,1-11)
b) Đức Giêsu
đuổi con buôn khỏi Đền Thờ (Chương 11,15-19)
c) Cây vả bị
rủa (Chương 11,12-14.20-25)
d) Tranh
luận về quyền của Đức Giêsu (Chương 11,27-33)
đ) Dụ ngôn
những tá điền sát nhân (Chương 12,1-12)
* Ba cuộc tranh luận và một lời giáo huấn:
a) Nộp thuế
cho Xêda (Chương 12,13-17)
b) Kẻ chết
sống lại (Chương 12,18-27)
c) Điều răn
đứng đầu (Chương 12,28-34)
d) Đức Kitô
là Con và là Chúa của vua Đavít (Chương 12,35-37)
Kết luận:
"Coi chừng những ông kinh sư!" (Chương 12,38-40)
Phụ trương:
Đồng xu của bà góa nghèo (Chương 12,41-44)
* Về ngày Giêrusalem bị tàn phá và ngày tận thế (Chương 13,1-37)
3. Cuộc Thương Khó và Phục Sinh (Chương 14,1-16,8)
* Dẫn nhập: Âm mưu và chuyện xức dầu thơm ở Bêtania (Chương 14,1-11)
* Âm thầm: Tiệc ly và cầu nguyện tại Ghếtsêmani (Chương 14,12-42)
* Công khai:
a) Đức Giêsu
bị bắt (Chương 14,43-52)
b) Đức Giêsu
bị người Dothái kết án vì là Mêsia (Chương 14,53-15,1)
c) Đức Giêsu
bị người ngoại kết án vì là Vua (Chương 15,2-20)
d) Đức Giêsu
chịu đóng đinh thập giá và chết (Chương 15,21-41)
đ) Đức Giêsu
được mai táng (Chương 15,42-47)
* Lời bạt: Mồ trống (Chương 16,1-8)
* Phụ trương: Các lần Đức Giêsu hiện ra (Chương 16,9-20)
VÀI ĐẶC ĐIỂM TRONG LỜI VĂN
Máccô là sách Tin Mừng ngắn nhất trong bốn sách Tin Mừng của
Tân Ước.
Lối trình
bày của Máccô là kể chuyện về Đức Giêsu để giúp người nghe khám phá mầu nhiệm
Đức Giêsu cùng với các nhân vật quanh Đức Giêsu, và dẫn người nghe hòa mình với
các môn đệ trong sự phát triển đức tin.
Lời văn sống
động và cụ thể. Nhịp độ dồn dập: đưa Đức Giêsu di chuyển từ nơi này sang nơi
khác rất nhanh. Máccô tránh mọi chuyển động dư thừa, dùng đối thoại vắn gọn và
sắc bén.
Từ ngữ có vẻ
nghèo về số lượng, nhưng lại được vận dụng với tất cả sức diễn đạt phong phú.
Thực tế và cụ thể, thích những con số xác định, những từ giảm nhỏ: chó con
(7,27tt); con cá nhỏ (8,7); cô bé (5,41); chiếc thuyền nhỏ (3,9).
Nhiều từ
Aram được giữ trong lời kể nhưng luôn được giải thích Boanerges (3,17), Talitha
kum (5,41), Korban (7,11), epphatha (7,34), Bartimaios (10,46)... Những từ
chuyên môn bằng tiếng Hylạp được giải thích bằng những từ Latinh (12,42;
15,16). Có nhiều kiểu nói vừa giải thích thêm, thí dụ: 1,32: "Chiều đến,
khi mặt trời đã lặn"; 1,42: "Chứng phong cùi biến khỏi anh và anh
được sạch".
Có những nét
bổ túc riêng của Máccô, đôi khi mang tính cách một kỷ niệm thí dụ 1,16; 3,21;
5,2t.8.28.42.
Máccô ít chú
trọng việc phối kết các mệnh đề theo đúng văn phạm, thường chỉ dùng chữ
"và" (kai) để nối giữa các mệnh đề, do đó khi đọc cần chú ý rằng
"và" có thể có nghĩa hoàn cảnh, điều kiện, thời gian... tùy mạch văn.
Những đặc
điểm trong lời văn của Máccô cho thấy Máccô không phải là người "làm
văn", cũng không phải một người kể chuyện tài ba. Máccô có vẻ một người tường
thuật trung thành và ngây thơ, thấy sao nói vậy theo cách của mình. Nhưng đằng
sau lời kể ngây thơ đó, người ta thấy cả một cái sườn vững chắc. Tác phẩm không
phải là công trình sáng tác của Máccô, nhưng được tiếp nhận từ cộng đoàn. Điều
ấy có nghĩa là Tin Mừng theo Máccô có nguồn gốc từ hai phía: một người chứng và
một cộng đoàn đã sống niềm tin vào Đức Giêsu Kitô (X. Léon-Duour Introduction à
la Bibile. t.III, Vol.2, trang 42).
TÁC GIẢ
Truyền thống
nhất loạt coi thánh Máccô là tác giả của sách Tin Mừng vẫn mang tên ông. Mặc dù
trong sách không có gì để cho ta biết tác giả là ai, điều chắc chắn là nếu
người ta muốn mượn danh thì phải mượn danh một vị nào nổi tiếng hơn.
Lời chứng
xưa nhất về điều này là của giám mục Papiát, người đồng thời với thánh Pôlicáp,
tức là thế hệ tiếp sau thế hệ thời Đức Giêsu. Lời chứng còn ghi lại của giám
mục Papiát có từ đầu thế kỷ II (100-110). Trong lời chứng có vài chi tiết khó
khiểu, nhưng điều chính yếu thì rõ ràng: Máccô là người giúp thánh Phêrô trong
việc giảng dạy và đã ghi chép thành một cuốn sách.
Những lời
chứng khác đáng giá là của thánh Giúttinô (khoảng năm 150), thánh Irênê (+202),
ông Téctulianô (+220), thánh Cơlêmentê thành Alêxanria (+215), ông Origiênê
(+254). Các sách khác trong tân Ước cho chúng ta biết vài chi tiết về Máccô:
- 1 Pr 5,13:
"Máccô con tôi"
- Cv 12,12:
"Gioan, biệt danh Máccô"
Ông Máccô đã
theo hai thánh Banaba và Phaolô (Cv 12,25; 13,5) sau bỏ về (13,13), khiến hai
nhà truyền giáo cũng chia tay nhau, thánh Banaba đưa ông Máccô qua Síp (15,37-39).
Cl 4,10; Plm 24; 2Tm 4,11 nói đến ông Máccô là người cùng làm việc với thánh
Phaolô.
Có nhiều nét
trong sách Tin Mừng này có tính cách lời chứng bản thân thánh Phêrô và những kỷ
niệm cá nhân như: trình thuật Đức Giêsu gọi các môn đệ, chữa mẹ vợ ông Simon
Phêrô, Đức Giêsu rời Caphácnaum, Đức Giêsu gọi Lêvi; Nadarét từ chối Đức Giêsu;
lời tuyên xưng của thánh Phêrô, người thanh niên giàu có, lời xin của hai anh
em nhà Dêbêđê, Đức Giêsu vào vào Giêrusalem, thanh tẩy Đền Thờ, xức dầu ở
Bêtania, Ghếtsêmani, Đức Giêsu bị bắt, ông Phêrô chối Đức Giêsu. Có thể thêm
những nét của một chứng nhân trực tiếp như: những cái nhìn của Đức Giêsu, tuổi
của cô bé được sống lại...
Máccô không
kể những chuyện đề cao, mà kể những chuyện bất lợi cho thánh Phêrô (thí dụ 8,33;
9,5; 14,29-31.66s), trong khi các sách Tin Mừng khác đề cao thánh Phêrô nhiều
hơn.
Tất cả những
nhận xét trên cũng cố lời chứng của giám mục Papiát nói về ông Máccô và liên hệ
giữa ông với thánh Phêrô.
ĐỘC GIẢ
Đọc Máccô
thấy rõ là sách này được viết cho các Kitô hữu không phải gốc Dothái và sống ở
ngoài xứ Paléttin.
Dấu hiệu
tích cực là Máccô luôn quan tâm giải thích những từ Aram, những phong tục
Dothái, những chi tiết về địa dư và nhấn mạnh ý nghĩa của Tin Mừng đối với dân
ngoại (7,27; 10,12; 11,17; 13,10). Dấu hiệu tiêu cực là Máccô ít nói những gì
thuộc về Luật (Môsê) và tương quan của Luật với Giao Ước Mới cũng như những
điều thuộc về sự ứng nghiệm lời các ngôn sứ.
NƠI VÀ THỜI GIAN BIÊN SOẠN
Theo lời
chứng của thánh Cơlêmentê thành Alêxanria, thánh Giêrônimô, sử gia Euxebiô và
thánh Éprem, thánh Máccô viết sách Tin Mừng tại Rôma.
Những từ Hy
lạp khó đều được dịch ra tiếng Latinh (12,42; 15,16) và những kiểu nói Latinh
(2,23; 5,23; 3,6; 5,43; 11,32; 14,64.65; 15,15.19) trong Máccô củng cố lời
chứng của các vị kể trên.
Về thời gian
biên soạn của Máccô, truyền thống không thống nhất mấy. Thánh Irênê bảo Máccô
viết sau khi thánh Phêrô chết. Thánh Cơlêmentê thành Alêxanria lại bảo Máccô
viết đang khi thánh Phêrô còn sống.
Phân tích
nội dung, dựa trên yếu tố là Máccô không nói gì ám chỉ tới việc Giêrusalem đã
bị phá hủy, các nhà nghiên cứu cho rằng sách Tin Mừng Máccô đã được viết trước
năm 70.
GIÁO LÝ
1. Tin Mừng
Máccô mở đầu
bằng hàng chữ "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa".
1,14 lại nói "Tin Mừng của Thiên Chúa" và 1,15: "Tin Mừng".
Tin Mừng của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, vì trong Đức
Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cứu độ loài người. Tin Mừng này
phải được loan báo cho mọi thọ tạo (13,10; 14,9; 16,15). Do đó, mà từ bỏ hoặc
làm việc gì "vì Đức Giêsu" hay "vì Tin Mừng" thì cũng đồng
nghĩa (x. 8,35; 10,29).
Tin Mừng ấy
không chỉ là một thông điệp của Thiên Chúa mà là chính hành động của Thiên Chúa
giữa loài người, khởi đầu nơi Đức Giêsu Kitô để rồi tiếp tục mãi trong lịch sử
nhờ lời được trao cho các môn đệ. Để làm sáng tỏ điều này, Máccô nhấn mạnh việc
các Tông Đồ được chia sẻ cuộc sống và sứ mạng của Chúa Giêsu: "Người lập
Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng với quyền
trừ quỷ" (3,14-15; x. 6,7). "Đức Giêsu được rước lên trời và ngự bên
hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hành
động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao
giảng" (16,19-20).
Do đó, hai
chủ đề lớn liên kết mật thiết với nhau xuyên suốt Máccô là: mầu nhiệm Đức Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa và con đường làm môn đệ Đức Giêsu.
2. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa
Câu hỏi có
tính trung tâm và chỉ đạo của Máccô được đặt ra ở 8,29: "Anh em bảo Thầy
là ai?" Máccô kể chuyện để đặt người đọc trước sự thúc bách phải đích thân
trả lời câu hỏi ấy. Những gì được kể lại về Đức Giêsu cho người đọc cơ sở để
trả lời.
Tiến trình
mặc khải trong Máccô có hai giai đoạn rõ rệt:
a) Ngay từ lúc Đức Giêsu khởi sự rao giảng tại Galilê, quyền năng bộc lộ
trong lời rao giảng và hành động của Đức Giêsu chống lại quyền lực của sự dữ đã được
đám đông nhận ra (1,21-45; 3,7-10). Nhưng khi quỷ hô lên rằng "Ngài là Con
Thiên Chúa" thì Đức Giêsu cấm ngặt không cho chúng nói (1,25; 3,12). Trong
khi đó giới lãnh đạo Dothái lại cho Người là công cụ của quỷ vương (3,22-30) và
đã sớm đi tới quyết định giết Người (3,6).
Các môn đệ
được chọn và có mặt từ đầu (1,16-20) lại có thái độ tìm hiểu. Khi Đức Giêsu trừ
quỷ, các ông lẩn trong đám đông với câu hỏi: "Chuyện gì thế này?"
(1,27). Rồi khi Đức Giêsu dẹp sóng gió thì chỉ có các ông với Chúa, các ông tự
hỏi: "Người là ai?" Các ông nghe nhiều câu trả lời từ phía đám đông
và cả Hêrôđê (6,14-16; 8,27-28). Các môn đệ luôn tỏ ra chậm hiểu, nhưng cuối
cùng ông Phêrô cũng thay mặt các ông tuyên xưng "Thầy là Đức Kitô"
(8,29). Nhưng Đức Giêsu lại cấm các ông không được nói điều đó ra (8,30).
b) Lý do của lệnh giữ "bí mật" được gợi ra ngay ở câu tiếp theo:
"Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người
phải chịu đau khổ nhiều..." (8,31). Các ông chưa được nói ra vì chưa biết
hết. Từ lúc này, lời loan báo sẽ được nhắc lại ba lần, dù các môn đệ không hiểu
và không dám hỏi - chắc chắn không phải vì sợ hỏi, mà vì sợ phải nghe nhắc lại!
Cuối giai đoạn
này, Đức Giêsu không cấm người mù ở Giêrikhô kêu to: "Lạy Ngài, Con vua
Đavít...", vì mọi chuyện sắp sáng tỏ tại Giêrusalem.
Cuộc đụng độ
của Đức Giêsu với giới lãnh đạo Dothái tại Giêrusalem đưa giới này tới âm mưu
thi hành quyết định đã nói đến ở 3,6.
Chính trong
cuộc Thương Khó, bí mật của Đức Giêsu đã được bày tỏ công khai. Đức Giêsu tuyên
bố rõ trước mặt Thượng Hội Đồng Dothái (14,61.62), và ngay khi Đức Giêsu chết,
viên sĩ quan thấy Ngươi tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật ông này là Con
Thiên Chúa" (15,39). Danh hiệu Con Thiên Chúa được gắn liền với danh hiệu
Con Người để diễn tả đầy đủ mầu nhiệm Đức Giêsu.
Danh hiệu
Con Thiên Chúa được đưa ra ngay ở đầu sách, được tiếng từ trời nói lên ở 1,11
và 9,7, và cuối cùng phát ra từ miệng viên sĩ quan "đứng đối diện với Đức
Giêsu" khi Người bị treo trên thập giá.
Mấy lần quỷ
tuyên xưng thì Đức Giêsu cấm chúng nói ra.
Khi hỏi Đức
Giêsu "có phải là Đấng Mêsia, Con Đấng đáng chúc tụng, không", có thể
vị thượng tế đồng hóa hai danh hiệu ấy. Nhưng trong câu trả lời của Đức Giêsu,
Máccô lại cho thấy ý nghĩa cực đại của danh hiệu "Con Thiên Chúa" như
các tín hữu tuyên xưng.
Ở đây, Đức
Giêsu tự nói về mình bằng danh hiệu "Con Người". Danh hiệu này xuất
hiện ở 2,10: "Con Người có quyền tha tội" và 2,28: "Con Người làm
chủ luôn cả ngày sabát". Từ khi bắt đầu loan báo cuộc Thương Khó và Phục
Sinh, Người thường dùng (11 lần) để nói về mình trong bối cảnh Thương Khó -
Phục Sinh, Thập Giá - Vinh Quang. Lời tuyên bố trước Thượng Hội Đồng cho thấy
danh hiệu này trong Tin Mừng lấy từ truyền thống khải huyền (Đn 7,13). Trong
Đanien 7, "Con Người" chỉ tập thể dân Chúa. Nhưng Mc 13,26 và 14,62
lại cho thấy Con Người ấy chính là Đức Giêsu sau khi trải qua cuộc Thương Khó.
Mầu nhiệm
Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa chỉ được bộc lộ đầy đủ trên thập giá.
3. Đức Giêsu và các môn đệ
Trong khi kể
chuyện Đức Giêsu, để đưa người nghe vào mầu nhiệm của Người, Máccô cũng đưa ra
những mẫu người, cũng đơn sơ mộc mạc như thính giả của Máccô, đã được Đức Giêsu
dẫn vào trong mầu nhiệm của Người. Cách Đức Giêsu dẫn dắt và dạy dỗ bộc lộ cho
người nghe con đường để trở thành môn đệ của Đức Giêsu.
Máccô đặt
bốn môn đệ bên cạnh Đức Giêsu, ngay từ những ngày đầu Người đi rao giảng. Các
ông luôn ở bên Đức Giêsu, chỉ rời xa Người lúc được sai đi rao giảng và trong
cuộc Thương Khó. Sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu hẹn gặp lại các ông ở Galilê.
Giai đoạn
thứ nhất: đời sống môn đệ, được đánh dấu bằng ba biến cố: Đức Giêsu gọi bốn
người chài lưới để đi chinh phục người ta (1,16-20); Đức Giêsu chọn mười hai
ông để ở lại với Người và để Người sai các ông đi (3,13-19) và chính việc Người
sai các ông đi (6,7-13)
Bước đầu
(1,16-3,6): các ông không làm gì hơn là ở bên Đức Giêsu và Người bênh vực các
ông.
Bước thứ hai
(3,7-6,6): các ông được đặt tương phản với những người thù ghét Đức Giêsu cũng
như với những người thân thuộc của Đức Giêsu, và tách khỏi đám đông: được dạy
bảo riêng (4,1-3,4), được chứng kến những phép lạ đặc biệt hơn (4,35-5,43).
Bước thứ ba:
Nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng, rồi được tham gia việc nuôi đám đông.
Nhưng sự chậm hiểu, cứng tin của các ông có vẻ như đi ngược chiều với những
bước cố gắng của Đức Giêsu (4,13; 6,52; 7,18; 8,14-21); càng lúc đầu các ông
như càng đặc lại. Phép lạ Đức Giêsu chữa người mù (8,22-26) có tác dụng làm mẫu
và mở mắt cho các ông trước khi Người hỏi các ông một câu quyết liệt.
Giai đoạn
thứ hai: ba lần Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó - Phục Sinh và dạy về những
đòi hỏi của đời môn đệ. Trước giáo huấn về thập giá, các ông vẫn tỏ ra chậm
hiểu, chậm tin. Giai đoạn này cũng kết thúc bằng việc Đức Giêsu chữa một người
mù và anh ta đi theo Người. Chỉ có Chúa là Đấng quyền năng mở con mắt thể xác,
mới có quyền mở con mắt linh hồn cho các ông tin.
Trước khi
cuộc Thương Khó tới, Đức Giêsu đã căn dặn các ông về cầu nguyện (11,20-25), về
đức tin, về thái độ chờ đợi Chúa đến. Đức Giêsu báo trước sự vấp ngã (14,26-31)
và dặn các ông coi chừng bị cám dỗ. Nhưng sự chậm hiểu chậm tin của các ông đã
bộc lộ đến tột cùng: tất cả bỏ trốn, ông Phêrô chối Chúa.
Đức Giêsu
Phục Sinh bắt đầu lại với các ông ở Galilê. Và lần này các ông được biến đổi
thật sự.
Đức Giêsu
chỉ là Kitô và Con Thiên Chúa trọn vẹn với Thập Giá và Phục Sinh. Môn đệ của
Đức Kitô cũng không thể đi con đường nào khác.
Các môn đệ
đầu tiên đã không hiểu Đức Giêsu trước khi Người chịu Thương Khó và Phục Sinh,
thì bất cứ ai muốn hiểu biết Đức Giêsu cũng phải bắt đầu từ mầu nhiệm Thập Giá
và Phục Sinh, và phải đi con đường ấy để trở nên môn đệ đích thật. Đó là ơn của
Đấng Kitô phục sinh được biểu lộ qua lời hẹn gặp ở Galilê: Chúa vẫn đi bước
trước.
I. DẪN NHẬP: GIAI ĐOẠN DỌN ĐƯỜNG
CHO SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU
Chương 1
Ông Gioan Tẩy Giả rao giảng
(1)
Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa:
(2) Chiếu
theo lời đã chép trong sách ngôn sứ Isaia:
Này Ta sai sứ
giả của Ta đi trước mặt Con,
người sẽ dọn
đường cho Con.
(3) Có tiếng người hô trong hoang địa:
sửa lối cho
thẳng để Người đi.
(4) Ông
Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu
phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. (5) Mọi người từ khắp miền Giuđê
và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ
trong sông Giođan. (6) Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn
châu chấu và mật ong rừng. (7) Ông rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn
tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. (8) Tôi
đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh
em trong Thánh Thần".
Đức Giêsu chịu phép rửa và được tuyên bố là Con Thiên Chúa
(9) Hồi ấy,
Đức Giêsu từ Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông
Giođan. (10) Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy
Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. (11) Lại có tiếng từ trời phán
rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."
Đức Giêsu chịu cám dỗ
(12) Thần
Khí liền đẩy Người vào hoang địa. (13) Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày,
chịu Xatan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.
II. MẦU NHIỆM ĐẤNG MÊSIA
1. Đức Giêsu và dân Chúng
Chương 1 (tiếp theo)
Dẫn nhập: tóm lược hoạt động rao giảng và việc gọi các môn đệ đầu
tiên
(14) Sau khi
ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. (15)
Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy
sám hối và tin vào Tin Mừng.
(16) Người
đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy ông Simon với người anh là ông Anrê,
đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. (17) Người bảo họ:
"Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người
như lưới cá." (18) Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
(19) Đi xa
hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Dêbêđê, và người em là ông Gioan.
Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. (20) Người liền gọi các ông. Và các
ông bỏ cha mình là ông Dêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi
theo Người.
Một ngày ở Caphácnaum
(21) Đức
Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Ngay ngày sabát, Người vào hội
đường giảng dạy. (22) Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người
giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
(23) Lập
tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên (24) rằng:
"Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt
chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa !" (25)
Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này !" (26)
Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. (27) Mọi
người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý
thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và
chúng phải tuân lệnh!" (28) Lập tức danh tiếng Ngươi đồn ra mọi nơi, khắp
cả vùng lân cận miền Galilê.
(29) Vừa ra
khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông
Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. (30) Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn
sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. (31)
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các
ngài. (32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những
ai bị quỷ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa. (34) Đức Giêsu
chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ
nói, vì chúng biết Người là ai. (35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã
dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Simon và các bạn kéo
nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy
đấy !" (38) Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm
việc đó." (39) Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội
đường của họ, và trừ quỷ.
(40) Có
người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngày
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch. (41) Người chạnh lòng thương giơ tay
đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi !" (42) Lập tức, chứng
phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. (43) Nhưng Người nghiêm giọng đuổi
anh đi ngay, (44) và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy
đi trình diện tư tế, và vì anh đã được làm sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê
đã truyền, để làm chứng cho người ta biết." (45) Nhưng vừa ra khỏi đó, anh
đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công
khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân
chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.
Chương 2
Năm cuộc tranh luận
(1) Vài ngày
sau, Đức Giêsu trở lại thành Caphácnaum. Hay tin Người ở nhà, (2) người ta tụ
tập lại, đông đến nỗi không còn chỗ nữa, cả ngoài cửa cũng không còn. Người
giảng lời cho họ. (3) Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt,
có bốn người khiêng. (4) Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng
đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một
lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. (5) Thấy họ có lòng tin
như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, con đã được tha tội
rồi." (6) Nhưng có mấy kinh sư đang ngồi đó, họ nghĩ thầm trong bụng rằng:
(7) "Sao ông này lại dám nói như vậy ? Ông ta nói phạm thượng ! Ngoài một
mình Thiên Chúa ra, ai có quyền tha tội? (8) Tâm trí Đức Giêsu thấu biết ngay họ
đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ
những điều ấy? (9) Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: 'Con đã được tha
tội rồi', hai là bảo: 'Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi', điều nào dễ hơn
? (10) Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức
Giêsu bảo người bại liệt, (11) Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng
của con mà đi về nhà !" (12) Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng
đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ
bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ !"
(13) Đức
Giêsu lại đi ra bờ biển hồ. Toàn thể dân chúng đến với Người, và Người dạy dỗ
họ. (14) Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lêvi là con ông Anphê, đang
ngồi ở đó. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi !" Ông đứng dậy đi theo
Người.
(15) Người
đến dùng bữa tại nhà ông. Nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Đức
Giêsu và các môn đệ, vì họ đông đảo và đã đi theo Người. (16) Những kinh sư
thuộc nhóm Pharisêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế,
thì nói với các môn đệ Người: "Sao ! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và
quân tội lỗi !" (17) Nghe thấy thế, Đức Giêsu nói với họ: "Người khoẻ
mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người
công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi".
(18) Bấy giờ
các môn đệ ông Gioan và các người Pharisêu đang ăn chay; có người đến hỏi Đức
Giêsu: "Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisêu ăn chay,
mà môn đệ ông lại không ăn chay ?" (19) Đức Giêsu trả lời: "Chẳng lẽ
khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng
rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được. (20) Nhưng khi tới ngày chàng rể đã
bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó. (21) Chẳng ai lấy vải mới mà
vá áo cũ, vì như vậy, miếng mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ, khiến chỗ rách lại
càng rách thêm. (22) Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu
sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, thì phải
bầu mới !"
(23) Vào
ngày sabát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Các môn đệ Người bắt đầu
bứt lúa trong khi đi đường. (24) Những người Pharisêu liền nói với Đức Giêsu:
"Ông coi, ngày sabát mà họ làm gì kia ? Điều ấy đâu cho phép !" (25)
Người đáp: "Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách à ? Vua Đavít đã làm gì,
khi vua và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng ? (26) Dưới thời thượng tế
Aviatha, vua vào nhà Thiên Chúa và ăn bánh tiến. Thứ bánh này không ai được
phép ăn ngoại trừ tư tế, thế mà vua đã ăn, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn
nữa."
(27) Người
nói tiếp: "Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người
vì ngày sabát. (28) Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát."
Chương 3
(1) Đức
Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. (2) Họ rình xem Đức
Giêsu có chữa người ấy ngày sabát không, để tố cáo Người. (3) Đức Giêsu bảo
người bại tay: "Anh chỗi dậy, ra giữa đây !" (4) Rồi Người nói với
họ: "Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay
giết đi ?" Nhưng họ làm thinh. (5) Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn
khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra !"
Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường.
Kết luận: Phe Pharisêu quyết định giết Đức Giêsu
(6) Ra khỏi
đó, nhóm Pharisêu lập tức bàn tính với phe Hêrôđê, để tìm cách giết Đức Giêsu.
2. Đức Giêsu và người thân thuộc
Dẫn nhập: Tóm lược hoạt động chữa bệnh và trừ tà; việc lập Nhóm
Mười Hai
(7) Đức
Giêsu cùng với các môn đệ cửa Người lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Galilê, người
ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Giuđê, (8) từ Giêrusalem, từ xứ Iđumê, từ
vùng bên kia sông Giođan và vùng phụ cận hai thành Tia và Xiđon, người ta lũ
lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm. (9) Người đã bảo các
môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để khỏi bị đám đông chen lấn.
(10) Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai ai có bệnh cũng đổ
xô đến để sờ vào Người. (11) Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì sấp mình
dưới chân Người và kêu lên: "Ông là Con Thiên Chúa !" (12) Nhưng
Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai.
(13) Rồi
Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với
Người. (14) Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các
ông đi rao giảng, (15) với quyền trừ quỷ. (16) Người lập Nhóm Mười Hai và đặt
tên cho ông Simon là Phêrô, (17) rồi có ông Giacôbê con ông Dêbêđê, và ông
Gioan em ông Giacôbê Người đặt tên cho hai ông là Boanêghê, nghĩa là con của
thiên lôi, (18) rồi đến các ông Anrê, Philípphê, Batôlômêô, Máthêu, Tôma,
Giacôbê con ông Anphê, Tađêô, Simon thuôc nhóm Quá Khích, (19) và Giuđa
Ítcariốt chính là kẻ nộp Người.
Trình thuật:
a) Các thân nhân coi Đức Giêsu là mất trí
(20) Người
trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn
uống được. (21) Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói
rằng Người đã mất trí.
b) Các kinh sư coi Đức Giêsu là người bị quỷ ám
(22) Còn các
kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bêendêbun ám và
Người dựa thế quỷ vương mà trừ qủy.
c) Đức Giêsu trả lời
(23) Người
liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: "Xatan làm sao trừ Xatan
được?" (24) Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; (25) nhà nào tự
chia rẽ, nhà ấy không thể vững. (26) Vậy Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia
rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. (27) Không ai vào nhà một người
mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới
cướp sạch nhà nó.
(28)
"Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm
thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. (29)
Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội
muôn đời". (30) Đó là vì họ đã nói "ông ấy bị thần ô uế ám
(31) Mẹ và
anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. (32) Lúc ấy, đám đông
đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ
và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy !" (33) Nhưng Người đáp
lại: "Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi?" (34) Rồi Người rảo mắt nhìn
những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. (35)
Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ
tôi."
Chương 4
Các dụ ngôn
(1) Đức
Giêsu lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung
quanh Người, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám
đông thì ở trên bờ. (2) Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều. Trong lúc
giảng dạy, Người nói với họ:
(3)
"Các người nghe đây ! Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. (4) Trong khi
gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. (5) Có hạt rơi trên sỏi
đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; (6) nhưng khi nắng
lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. (7) Có hạt rơi vào bụi
gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả. (8) Có những hạt
lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba
mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được mmột trăm." (9) Rồi Người nói: "Ai
có tai nghe thì nghe !"
(10) Khi còn
một mình Đức Giêsu, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người
về các dụ ngôn. (11) Người nói với các ông: "Phần anh em, mầu nhiệm Nước
Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài,
thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, (12) để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy,
có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ."
(13) Người
còn nói với các ông: "Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được
tất cả các dụ ngôn ? (14) Người gieo giống đây là người gieo lời. (15) Những kẻ
ở bên vệ đường, nơi lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa nghe thì Xatan liền đến
cất lời đã gieo nơi họ. (16) Còn những kẻ được gieo trên sỏi đá là những kẻ khi
nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận, (17) nhưng họ không đâm rễ mà là những kẻ
nông nổi nhất thời; sau đó, khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì lời, họ vấp
ngã ngay. (18) Những kẻ khác là những kẻ được gieo vào bụi gai: đó là những kẻ
đã nghe lời, (19) nhưng những nỗi lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng
những đam mê khác xâm chiếm lòng họ, bóp nghẹt lời khiến lời không sinh hoa kết
quả gì. (20) Còn những người khác nữa là những người được gieo vào đất tốt: đó
là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì
sáu mươi, kẻ thì một trăm."
(21) Người
nói với các ông: "Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm
giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao ? (22) Vì chẳng có gì bí ẩn mà
không phải là để hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà không phải là để đưa ra ánh
sáng. (23) Ai có tai nghe thì nghe !"
(24) Người
nói với các ông: "Hãy để ý tới điều anh em nghe. Anh em đong bằng đấu nào,
thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy, và còn cho anh em hơn nữa.
(25) Vì ai đã có, thì được thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ
bị lấy mất."
(26) Người
nói: "Chuyện Nước Thên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt
giống xuống đất. (27) Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn
nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. (28) Đất tự động
sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng
thành bông lúa nặng trĩu hạt. (29) Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt,
vì đã đến mùa."
(30) Rồi
Người lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây ? Lấy dụ ngôn
nào mà hình dung được ? (31) Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống
đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. (32) Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc
lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ
dưới bóng."
(33) Người
dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể
nghe. (34) Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng
khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Ba phép lạ lớn
(35) Hôm ấy,
khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ bên kia đi
!" (36) Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên
thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. (37) Và một trận cuồng phong nổi
lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. (38) Trong khi đó, Đức Giêsu
đang ỏ đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy
và nói: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao ?"
(39) Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi ! Câm đi
!" Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. (40) Rồi Người bảo các ông:
"Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ? "(41) Các
ông hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển
cũng tuân lệnh ?"
Chương 5
(1) Đức
Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghêrasa. (2)
Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra
đón Người. (3) Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh
ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. (4) Thật vậy, nhiều lần anh bị
gồng cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng xích, và đập tan gông cùm.
Và không ai có thể kiềm chế anh được. (5) Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám
mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập vào mình. (6) Thấy Đức Giêsu tự
đàng xa, anh ta chạy đến bái lạy Người (7) và kêu lớn tiếng rằng: "Lạy ông
Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông ? Nhân danh Thiên
Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi !" (8) Thật vậy, Đức Giêsu, đã bảo nó:
"Thần ô uế kia, xuất khỏi người này !" (9) Người hỏi nó: "Tên
ngươi là gì ?" Nó thưa: "Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông
lắm." (10) Nó khẩn khoản nài xin Người đừng đuổi chúng ra khỏi vùng ấy.
(11) Ở đó có một bầy heo rất đông đang ăn bên sườn núi. (12) Đám thần ô uế nài
xin Người rằng: "Xin sai chúng tôi đến nhập vào những con heo kia."
(13) Người cho phép. Chúng xuất khỏi người đó và nhập vào bầy heo. Cả bầy heo -
chừng hai ngàn con - từ trên sườn núi lao xuống biển và chết ngộp dưới đó. (14)
Các kẻ chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. Thiên hạ đến xem
việc gì đã xảy ra. (15) Họ đến cùng Đức Giêsu và thấy kẻ bị quỷ ám ngồi đó, ăn
mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo - chính người này đã bị đạo binh quỷ nhập vào.
Họ phát sợ. (16) Những người chứng kiến đã kể lại cho họ nghe việc đã xảy ra
thế nào cho người bị quỷ ám và chuyện bầy heo. (17) Bấy giờ họ lên tiếng nài
xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
(18) Khi
Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người.
(19) Nhưng Người không cho phép, Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân,
và loan tin cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh
như thế nào." (20) Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh
tất cả những gì Đức Giêsu đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.
(21) Đức
Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh
Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. (22) Có một ông trưởng hội đường
tên là Giaia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người, (23)
và khẩn khoản nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay
lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống." (24) Người liền ra đi với
ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.
(25) Có một
bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, (26) bao phen khổ sở vì chạy thầy thuốc
đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là
khác. (27) Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau
Người, và sờ vào áo của Người. (28) Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo
Người thôi, là sẽ được cứu." (29) Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy
trong mình đã được khỏi bệnh. (30) Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực
tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: "Ai đã sờ
vào áo tôi ?" (31) Các môn đệ thưa: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy
như thế mà Thầy còn hỏi: "Ai đã sờ vào tôi ?" (32) Đức Giêsu ngó
quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. (33) Bà này sợ phát run lên, vì biết
cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật
với Người. (34) Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu
chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh."
(35) Đức
Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo:
"Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa ?" (36) Nhưng Đức Giêsu
nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần
tin thôi." (37) Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông
Giacôbê và em ông này là ông Gioan. (38) Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường.
Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. (39) Người bước vào nhà và bảo
họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy
!" (40) Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ
đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. (41) Người cầm lấy
tay nó và nói: "Talithakum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho
con: chỗi dậy đi !" (42) Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã
mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. (43) Đức Giêsu nghiêm
cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
Chương 6
Kết luận: Dân làng Nadarét không nhận biết Đức Giêsu
(1) Đức
Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. (2) Đến
ngày sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi
ngạc nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan
như vậy, nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì
? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông
Giacôbê, Gioxê, Giuđa và Simon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối
xóm với chúng ta sao ?" Và họ vấp ngã vì Người. (4) Đức Giêsu bảo họ:
"Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa
đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." (5) Người đã không
thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và
chữa lành họ. (6) Người lấy làm lạ vì họ không tin.
3. Đức Giêsu và các môn đệ
Dẫn nhập: Tóm lược hoạt động rao giảng; các Tông Đồ được sai đi và
trở về
Rồi Người đi
các làng chung quanh mà giảng dạy. (7) Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu
sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. (8) Người chỉ
thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang
lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; (9) được đi dép, nhưng không được mặc hai
áo. (10) Người bảo các ông: "Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì
cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. (11) Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe
lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ."
(12) Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. (13) Các ông trừ
được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Mối lo của Hêrôđê về Đức Giêsu và trình thuật về cái chết của ông
Gioan Tẩy Giả
(14) Vua
Hêrôđê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: "Đó là ông
Gioan Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi
ông." Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ". Kẻ khác nữa lại
nói: "Đó là ông Êlia". Kẻ khác nữa lại nói: "Đó là một ngôn sứ
như một trong các ngôn sứ". (16) Vua Hêrôđê nghe thế, liền nói: "Ông
Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy !"
(17) Số là
vua Hêrôđã sai đi bắt ông Gioan và xiềng ông trong ngục. Lý do là vì vua đã lấy
bà Hêrôđia, vợ của người anh là Philípphê, (18) mà ông Gioan lại bảo:
"Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài !" (19) Bà Hêrôđia căm thù
ông Gioan và muốn giết ông, nhưng không được. (20) Thật vậy, vua Hêrôđê nể sợ
ông Gioan vì biết ông là người công chính thánh thiện; vua che chở ông. Khi
nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.
(21) Một
ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrôđê mở tiệc thết
đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê. (22) Con gái bà Hêrôđia vào
biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dư tiệc vui thích. Nhà vua nói
với cô gái: "Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con". (23) Vua lại
còn thề: "Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được."
(24) Cô gái đi ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì đây ?" Mẹ cô nói: "Đầu
Gioan Tẩy Giả". (25) Lập tức cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin rằng:
"Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy Giả, đặt trên
mân".
(26) Nhà vua
buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô.
(27) Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi,
chặt đầu ông ở trong ngục, (28) bưng đầu ông trên một cái mân trao cho cô gái,
và cô gái trao cho mẹ. (29) Nghe tin ấy, môn đệ đến lấy thi hài ông và đặt
trong một ngôi mộ.
Phép lạ bánh hoá nhiều lần thứ nhất và chuỗi phép lạ, tranh luận
tiếp theo
(30) Các
Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông
đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. (31) Người bảo các ông: "Chính anh em
hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Quả thế,
kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. (32)
Vậy, các ngài xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. (33) Thấy các
ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường
bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. (34) Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám
người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.
Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. (35) Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ
đến gần Người và thưa: "Ở đây hoang vắng và bây giờ đã khá muộn. (36) Xin
Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn."
(37) Người đáp: "Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi !" Các ông nói với
Người: "Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao
?" (38) Người bảo các ông: "Anh em có mấy chiếc bánh ? Đi coi xem
!" Khi biết rồi, các ông thưa: "Có năm chiếc bánh và hai con
cá." (39) Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngả lưng thành từng nhóm
trên cỏ xanh. (40) Họ ngả lưng xuống thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì
năm mươi. (41) Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời,
dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân
chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. (42) Ai nấy đều ăn và được no
nê. (43) Người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá
còn dư. (44) Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông.
(45) Lập
tức, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia về phía thành
Bétxaiđa trước, trong lúc Người giải tán đám đông. (46) Sau khi từ biệt các
ông, Người lên núi cầu nguyện. (47) Chiều đến, chiếc thuyền đang ở giữa biển
hồ, chỉ còn một mình Người ở trên đất. (48) Người thấy các ông phải vất vả chèo
chống vì gió ngược, nên vào khoảng canh tư đêm ấy, Người đi trên mặt biển mà
đến với các ông và Người định vượt các ông. (49) Nhưng khi các ông thấy Người
đi trên mặt biển, lại tưởng là ma, thì la lên. (50) Quả thế, tất cả các ông đều
nhìn thấy Người và đều hoảng hốt. Lập tức, Người bảo các ông: "Cứ yên tâm,
chính Thầy đây, đừng sợ !" (51) Người lên thuyền với các ông, và gió lặng.
Các ông cảm thấy bàng hoàng sửng sốt, (52) vì các ông đã không hiểu ý nghĩa
phép lạ bánh hoá nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội !
(53) Khi qua
biển rồi, Đức Giêsu và các môn đệ ghé vào đất liền tại Ghennêxarét và lên bờ.
(54) Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giêsu. (55) Họ
rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó.
(56) Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành thị hay thôn xóm nào, người ta cũng
đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít là được chạm đến
tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi.
Chương 7
(1) Có những
người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ
Giêrusalem đến. (2) Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế,
nghĩa là chưa rửa. (3) Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Dothái đều
nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận;
(4) thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ
nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. (5) Vậy, người
Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: "Sao các môn đệ của ông không theo
truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa ? (6) Người trả lời họ:
"Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo
đức giả, khi viết rằng:
Dân này tôn
kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
(7) Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy
chỉ là giới luật phàm nhân.
(8) Các ông
gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm".
(9) Người còn nói: "Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa
để nắm giữ truyền thống của các ông. (10) Quả thế, ông Môsê đã dạy rằng: Người
hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử ! (11) Còn các
ông, các ông lại bảo: "Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có
để giúp cha mẹ đều là "coban" rồi, nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho
Chúa", (12) và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa.
(13) Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ
lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa !"
(14) Sau đó,
Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và
hiểu cho rõ: (15) Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể
làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái
làm cho con người ô uế. (16) Ai có tai nghe thì nghe !
(17) Khi Đức
Giêsu đã rời đám đông mà vào nhà, các môn đệ hỏi Người về dụ ngôn ấy. (18)
Người nói với các ông: "Cả anh em nữa, anh em cũng ngu tối như thế sao ?
Anh em không hiểu sao ? Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì
không thể làm cho con người ra ô uế, (19) bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng
vào bụng người ta, rồi đi ra xuống cầu tiêu ?" Như vậy là Người tuyên bố
mọi thức ăn đều thanh sạch. (20) Người nói: "Cái gì từ trong con người
xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. (21) Vì từ bên trong, từ lòng
người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, (22) ngoại
tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông
cuồng. (23) Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho
con người ra ô uế."
(24) Đức
Giêsu đứng dậy, rời nơi đó, đến địa hạt Tia. Người vào một nhà nọ mà không muốn
cho ai biết, nhưng không thể giấu được. (25) Thật vậy, một người đàn bà có đứa
con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân
Người. (26) Bà là người Hylạp, gốc Phênixi thuộc xứ Xyria. Bà xin Người trừ quỷ
cho con gái bà. (27) Người nói với bà: "Phải để cho con cái ăn no trước
đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con." (28) Bà
ấy đáp: Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những
mảnh vụn của đám trẻ con." (29) Người nói với bà: "Vì bà nói thế, nên
bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi. (30) Về đến nhà, bà thấy đứa bé
nằm trên giường và quỷ đã xuất.
(31) Đức
Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđon, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh.
(32) Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người
đặt tay trên anh.
(33) Người
kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước
miếng mà bôi vào lưỡi anh. (34) Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và
nói: "Epphatha", nghĩa là: hãy mở ra ! (35) Lập tức tai anh ta mở ra,
lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. (36) Đức Giêsu truyền bảo họ
không được kể chuyện đó ới ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng
đồn ra. (37) Họ hết sự kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp
cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."
Chương 8
Phép lạ bánh hoá nhiều lần thứ hai
(1) Trong
những ngày ấy, lại có một đám rất đông, và họ không có gì ăn, nên Đức Giêsu gọi
các môn đệ lại mà nói: (2) "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn
với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn ! (3) Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn
đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người ở xa
đến". (4) Các môn đệ thưa Người: "Ở đây, trong nơi hoang vắng này,
lấy đâu ra bánh cho họ ăn no ?" (5) Người hỏi các ông: "Anh em có mấy
chiếc bánh ?" Các ông đáp: "Thưa có bảy chiếc". (6) Người truyền
cho đám đông ngả lưng xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ
ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho
đám đông. (7) Các ông cũng có mấy con cá nhỏ. Người đọc lời chúc tụng, rồi bảo
các ông dọn cả cá ra. (8) Đám đông đã ăn và được no nê. Người ta nhặt lấy những
mẩu bánh còn thừa: bảy giỏ ! (9) Mà đám đông có khoảng bốn ngàn người. Người
giải tán họ. (10) Lập tức, Đức Giêsu xuống thuyền với các môn đệ và đến miền
Đanmanutha.
Tranh luận với người Pharisêu
(11) Những
người Pharisêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu
lạ từ trời để thử Người. (12) Người thở dài não nuột và nói: "Sao thế hệ
này lại xin một dấu lạ ? Tôi bảo thật cho các ông biết: thế hệ này sẽ không
được một dấu lạ nào cả". (13) Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ
bên kia.
Dạy dỗ các môn đệ
(14) Các môn
đệ quên đem bánh theo; trên thuyền, các ông chỉ có một chiếc bánh. (15) Người
răn bảo các ông: "Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisêu và men
Hêrôđê!" (16) Và các ông bàn tán với nhau về chuyện các ông không có bánh.
(17) Biết thế, Người nói với các ông: "Sao anh em lại bàn tán về chuyện
anh em không có bánh ? Anh em chưa hiểu chưa thấu sao ? Lòng anh em ngu muội
thế ! (18) Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư ? Anh em không
nhớ sao: (19) khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu
lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh ?" Các ông đáp: "Thưa được mười
hai". (20) "Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh
em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh ? "Các ông nói: "Thưa
được bảy". (21) Người bảo các ông: "Anh em chưa hiểu ư ?"
Chữa người mù
(22) Đức
Giêsu và các môn đệ đến Bếtxaiđa. Người ta dẫn một người mù đến và nài xin Đức
Giêsu sờ vào anh ta. (23) Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ
nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: "Anh có thấy gì không
?" (24) Anh ngước mắt lên và thưa: "Tôi thấy người ta, trông họ như
cây cối đi đi lại lại". (25) Rồi Người lại đặt tay trên mắt anh, anh trông
rõ và khỏi hẳn; anh thấy tỏ tường mọi sự. (26) Người cho anh về nhà và dặn
"Anh đừng có vào làng".
Kết Luận: Lời tuyên xưng đức tin của ông Phêrô và chỉ thị giữ bí
mất
(27) Đức
Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc
đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai ?" (28) Các ông
đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác
lại cho là một ngôn sứ nào đó". (29) Người lại hỏi các ông: "Còn anh
em, anh em bảo Thầy là ai ?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng
Kitô". (30) Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về
Người.
III. MẦU NHIỆM CON NGƯỜI
1. Con đường của Con Người: ba lần loan báo cuộc Thương Khó và Phục
Sinh, kèm theo ba lần giáo huấn về số phận các môn đệ
a) Loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ nhất
(31) Rồi
Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ
mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.
(32) Người nói rõ điều đó, không úp mở. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và
bắt đầu trách Người. (33) Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ,
Người trách ông Phêrô: "Xatan ! lui lại đàng sau Thầy ! Vì tư tưởng của
anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loàn người".
b) Giáo huấn
(34) Rồi Đức
Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai
muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. (35) Quả vậy,
ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi
và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. (36) Vì được cả thế giới mà phải
thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì ? (37) Quả thật, người ta lấy
gì mà đổi lại mạnh sống mình ? (38) Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai
hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy,
khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha
Người".
Chương 9
(1) Đức
Giêsu còn nói với họ: "Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt
ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên
Chúa đến, đầy uy lực."
c) Bổ túc
1) Đức Giêsu biến đổi hình dạng và nói về ông Êlia
(2) Sáu ngày
sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các
ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người
biến đổi hình dạng trước mắt các ông. (3) Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng
tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. (4) Và ba môn đệ
thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. (5) Bấy giờ, ông
Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá !
Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một
cái". (6) Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. (7)
Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây
là Con Ta Yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". (8) Các ông chợt nhìn quanh,
thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi.
(9) Ở trên
núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những
điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại. (10) Các ông tuân
lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa
là gì. (11) Các ông hỏi Đức Giêsu : "Tại sao các kinh sư lại nói ông Êlia
phải đến trước ?" (12) Người đáp: "Đúng thế, ông Êlia đến trước để
chỉnh đốn mọi sự. Vậy, sao có lời chép về Con Người rằng Người phải chịu nhiều
đau khổ và bị kinh chê? (13) Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Êlia đã đến,
và họ đã xử với ông theo ý họ muốn, như Sách Thánh đã chép về ông".
2) Đức Giêsu chữa người động kinh
(14) Khi Đức
Giêsu và ba môn đệ trở lại với các môn đệ khác, thì thấy một đám người rất đông
đang vây quanh các ông, và các kinh sư tranh luận với các ông. (15) Thấy Đức
Giêsu, lập tức tất cả đám đông kinh ngạc. Họ chạy lại chào Người. (16) Người
hỏi các môn đệ: "Anh em tranh luận gì với họ thế ?" (17) Một người
trong đám đông trả lời: "Thưa Thầy, tôi đã đem con trai tôi lại cùng Thầy;
cháu bị quỷ câm ám. (18) Bất cứ ở đâu, hễ quỷ nhập vào là vật cháu xuống. Cháu
sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để
họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi". (19) Người đáp: "Ôi
thế hệ cứng lòng, không có lòng tin ! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao
giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa ? Đem nó lại đây cho
tôi". (20) Người ta đem nó lại cho Người. vừa thấy Người, quỷ liền lay nó
thật mạnh, nó ngã xuống đất, lăn lộn, sùi cả bọt mép. (21) Người hỏi cha nó:
"Cháu bị như thế từ bao lâu rồi ?" Ông ấy đáp: "Thưa từ thuở bé.
(22) Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho nó chết. Nhưng nếu
Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi".
Đức Giêsu nói với ông ta: "Sao lại nói: nếu Thầy có thể ? Cái gì cũng có
thể, đối với người có lòng tin". (24) Lập tức, cha đứa bé kêu lên:
"Tôi tin ! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi !" (25) Khi
thấy đám đông tuôn đến, Đức Giêsu quát mắng tên quỷ: "Thần câm điếc kia,
Ta truyền cho ngươi: ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa !" (26)
Quỷ thét lên, lay nó thật mạnh, rồi ra khỏi. Đứa bé ra như chết, khiến cho
nhiều người nói: "Nó chết rồi !" (27) Nhưng Đức Giêsu cầm lấy tay nó,
đỡ nó dậy, và nó đứng lên. (28) Khi Người vào nhà, các môn đệ mới hỏi riêng
Người: "Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy ?" (29)
Người đáp: "Giống quỷ ấy chỉ trừ được bằng lời cầu nguyện thôi".
a) Loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ hai
(30) Đức
Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không
muốn có ai biết, (31) vì Người đang dạy các môn đệ rằng: "Con Người sẽ bị
nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba
ngày Người sẽ sống lại." (32) Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông
sợ không dám hỏi lại Người.
b) Giáo huấn về phục vụ
(33) Sau đó,
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Caphácnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các
ông: "Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?" (34) Các ông làm
thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. (35)
Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người
đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." (36)
Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: (37)
"Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy;
và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã
sai Thầy".
(38) Ông Gioan
nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà
trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta". (39)
Đức Giêsu bảo :"Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà
làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. (40) Quả thật, ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.
(41)
"Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì
Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
(42)
"Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà
buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. (43) Nếu tay anh làm cớ
cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là
có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. [44] (45) Nếu
chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào
cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục, [46] (47) Nếu mắt
anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên
Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, (48) nơi giòi bọ không hề
chết và lửa không hề tắt. (49) Quả thật, ai nấy sẽ được luyện bằng lửa như thể
ướp bằng muối. (50) Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ
lấy gì ướp cho mặn lại ? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em, và sống hoà
thuận với nhau".
Chương 10
c) Bổ túc:
1) Ly dị
(1) Đức
Giêsu bỏ nơi đó, đi tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Gioađan. Và những đám
đông lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ. (2) Có mấy
người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được
phép rẫy vợ không ?" Họ hỏi thế là để thử Người. (3) Người đáp: "Thế
ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì ?" (4) Họ trả lời: "Ông Môsê
đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ". (5) Đức Giêsu nói với họ:
"Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho
các ông. (6) Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người
có nam có nữ; (7) vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,
(8) và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng
chỉ là một xương một thịt. (9) Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người
không được phân ly". (10) Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều
ấy. (11) Người nói: "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối
với vợ mình; (12) và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại
tình".
2) Các trẻ em
(13) Người
ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người chạm tay vào chúng. Nhưng các môn đệ
xẵng giọng với chúng. (14) Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: "Cứ
để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những
ai giống như chúng. (15) Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên
Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào". (16) Rồi Người ôm lấy các trẻ
em và đặt tay chúc lành cho chúng.
3) Của cải
(17) Đức
Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và
hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia
nghiệp ?" (18) Đức Giêsu đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành ? Không
có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. (19) Hẳn anh biết các điều răn:
Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại
ai, hãy thờ kính cha mẹ". (20) Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những
điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ". (21) Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta
và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy
đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.
Rồi hãy đến theo tôi". (22) Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu
bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
(23) Đức
Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: "Những người có
của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao !" (24) Nghe Người nói thế, các
môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên
Chúa thật khó biết bao ! (25) Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu
vào Nước Thiên Chúa". (26) Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với
nhau: "Thế thì ai có thể được cứu ?" (27) Đức Giêsu nhìn thẳng vào
các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với
Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể
được".
4) Phần thưởng
(28) Ông
Phêrô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi
sự mà theo Thầy !" (29) Đức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng
hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và
vì Tin Mừng, (30) mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh
em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống
đời đời ở đời sau. (31) Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót,
còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu".
a) Loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ ba
(32) Đức
Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem, Người dẫn đầu các ông. Các
ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm
Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình:
(33) "Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế
và kinh sự. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. (34) Họ sẽ
nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày
sau, Người sẽ sống lại".
b) Giáo huấn nhân chuyện hai người con ông Dêbêđê
(35) Hai
người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: "Thưa
Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin
đây". (36) Người hỏi: "Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều
gì ?" (37) Các ông thưa: "Xin cho hai anh em chúng con, một người
được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh
quang". (38) Đức Giêsu bảo: "Các anh không biết các anh xin gì ! Các
anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không
?" (39) Các ông đáp: "Thưa được." Đức Giêsu bảo: "Chén Thầy
uống, anh em cũng sẽ uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không ?"
(39) Các ông đáp: "Thưa được". Đức Giêsu bảo: "Chén Thầy uống,
anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy chịu, anh em cũng sẽ chịu. (40) Còn việc
ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã
dọn sẵn cho ai thì kẻ ấy được".
(41) Nghe
vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. (42) Đức
Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết: những người được coi là thủ
lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người làm lớn thì áp đặt
trên họ quyền hành của mình. (43) Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy: ai
muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; (44) ai muốn làm
đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. (45) Vì Con Người đến không phải để
được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạnh sống làm giá
chuộc muôn người".
c) Bổ túc: Người mù ở Giêrikhô
(46) Đức
Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và
một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, thì có một người hành khất mù,
tên là Báctimê, con ông Timê, đang ngồi ở vệ đường. (47) Vừa nghe nói đó là Đức
Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít,
xin dủ lòng thương tôi !" (48) Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi,
nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương
tôi !" (49) Đức Giêsu đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây !"
Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy
!" (50) Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.
(51) Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Anh mù đáp: "Thưa
Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được". (52) Người nói: "Anh hãy đi, lòng
tin của anh đã cứu anh !" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người
trên con đường Người đi.
2. Phán xét Giêrusalem
Chương 11
Phán Xét bằng hành động và lời nói:
a) Đức Giêsu vào Giêrusalem
(1) Khi Đức
Giêsu và các môn đệ đến gần thành Giêrusalem, gần làng Bếtphaghê và Bêtania,
bên triền núi Ôliu, Người sai hai môn đệ (2) và bảo: "Các anh đi vào làng
trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang
cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và đem nó về đây. (3) Và nếu có ai bảo:
"Tại sao các anh làm như vậy ?", thì cứ nói là Chúa cần đến nó và
Người sẽ gởi lại đây ngay." (4) Các ông ra đi và thấy một con lừa con cột
ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền tháo dây lừa ra. (5) Mấy người đứng
đó nói với các ông: "Các anh tháo con lừa ra làm gì vậy ?" (6) Hai
ông trả lời như Đức Giêsu đã dặn. Và họ để mặc các ông. (7) Hai ông đem con lừa
về cho Đức Giêsu, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức Giêsu cỡi
lên. (8) Nhiều người cũng trải áo họ xuống mặt đường, một số khác lại chặt
nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. (9) Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang
dậy: "Hoan hô ! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa ! (10) Chúc tụng
triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng
trời !" (11) Đức Giêsu vào Giêrusalem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt,
nhìn xem mọi sự, và vì giờ đã muộn, Người đi ra Bêtania cùng với Nhóm Mười Hai.
(12) Hôm
sau, khi thầy trò rời khỏi Bêtania, thì Đức Giêsu cảm thấy đói. (13) Trông thấy
ở đàng xa có một cây vả tốt lá, Người đến xem có tìm được trái nào không. Nhưng
khi lại gần, Người không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi, vì không phải là mùa
vả. (14) Người lên tiếng bảo cây vả: "Đời đời không còn ai ăn trái của mày
nữa !" Các môn đệ đã nghe Người nói thế.
b) Đức Giêsu đuổi con buôn khỏi Đền Thờ
(15) Thầy
trò đến Giêrusalem. Đức Giêsu vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang mua
bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán
bồ câu. (16) Người không cho ai được mang đồ vật gì đi qua Đền Thờ. (17) Người
giảng dạy và nói với họ: "Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được
gọi là nhà cầu nguyện dành cho mọi dân tộc sao ? Thế mà các người đã biến thành
sào huyệt của bọn cướp !" (18) Các thượng tế và kinh sư nghe thấy vậy, thì
tìm cách giết Đức Giêsu. Quả thế, họ sợ Người, vì cả đám đông đều rất ngạc
nhiên về lời giảng dạy của Người. (19) Chiều đến, Đức Giêsu và các môn đệ ra
khỏi thành.
c) Cây vả bị rủa
(20) Sáng
sớm, khi đi ngang cây vả, các ngài thấy nó đã chết khô tận rễ. (21) Ông Phêrô
sực nhớ lại, liền thưa Đức Giêsu: "Kìa Thầy xem: cây vả Thầy rủa đã chết
khô rồi !" (22) Đức Giêsu nói với các ông: "Anh em hãy tin vào Thiên
Chúa. (23) Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: 'Dời chỗ đi, nhào
xuống biển !', mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ
xảy ra, thì điều ấy sẽ được ban cho. (24) Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả
những gì anh em cầu nguyện và xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ
được như ý. (25) Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với
ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha
lỗi cho anh em". [(26) Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em
là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em].
d) Tranh luận về quyền của Đức Giêsu
(27) Đức
Giêsu và các môn đệ lại vào Giêrusalem. Người đang đi trong Đền Thờ, thì các
thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến cùng Người và hỏi: (28) "Ông lấy quyền
nào mà làm các điều ấy ? hay ai đã cho ông quyền đó để ông làm các điều ấy
?" (29) Đức Giêsu đáp: "Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi. Các
ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các
điều ấy. (30) Vậy, phép rửa của ông Gioan là do Trời hay do người ta ? Các ông
trả lời cho tôi đi !" (31) Họ bàn với nhau: "Nếu mình nói: 'Do Trời',
thì ông ấy sẽ vặn lại: 'Thế sao các ông lại không tin ông ấy ?' (32) Nhưng
chẳng lẽ mình nói: 'Do người ta' ?" Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông
Gioan thật là một ngôn sứ. (33) Họ mới trả lời Đức Giêsu: "Chúng tôi không
biết". Đức Giêsu liền bảo họ: "Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho
các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy".
Chương 12
Dụ ngôn những tá điều sát nhân
(1) Đức
Giêsu bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: "Có người kia trồng được
một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh.
Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. (2) Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến
gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. (3) Nhưng họ bắt người
đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không. (4) Ông lại sai một đầy tớ khác đến với
họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. (5) Ông sai một người khác nữa, họ cũng
giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác: kẻ thì họ đánh, người thì họ giết.
(6) Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu: người này là người cuôùi
cùng ông sai đến gặp họ: ông nói: "Chúng sẽ nể con ta". (7) Nhưng bọn
tá điền ấy bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi ! Nào ta giết quách nó đi, và
gia tài sẽ về tay ta." (8) Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên
ngoài vười nho. (9) Vậy ông chủ vườn nho sẽ làm gì ? Ông sẽ đến tiêu diệt các
tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác. (10) Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh
này sao?
Tảng đá thợ xây
nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường.
(11) Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt
chúng ta !
(12) Họ tìm
cách bắt Đức Giêsu, nhưng lại sợ dân chúng; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm
vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.
a) Nộp thuế cho Xêda
(13) Họ cử
mấy người Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôdê đến cùng Người để gài bẫy cho
Người lỡ lời. (14) Những người này đến và nói: "Thưa Thầy, chúng tôi biết
Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh
giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được
phép nộp thuế cho Xêda hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?"
(15) Nhưng Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói: "Tại sao các người
lại thử tôi? Đem một quan tiền cho tôi coi !" (16) Họ liền đưa cho Người.
Người hỏi: "Hình và danh hiệu này là của ai đây ?" Họ đáp: "Của
Xêda". (17) Đức Giêsu bảo họ: "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa,
trả về Thiên Chúa". Và họ hết sức ngạc nhiên về Người.
b) Kẻ chết sống lại
(18) Còn
những người thuộc nhóm Xađốc đến gặp Đức Giêsu. Nhóm này chủ trương không có sự
sống lại. Họ hỏi Người: (19) "Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta
rằng: "Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con,
thì người ấy phải lấy nàng, để gầy dựng một dòng giống cho anh hay em
mình". (20) Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi
mà không để lại một đứa con nối dòng. (21) Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng
chết mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. (22) Cả bảy
người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết.
(23) Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ ?
Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ".
(24) Đức
Giêsu nói: "Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa
mà các ông lầm sao ? (25) Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng
còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. (26) Còn về
vấn để kẻ chết sống lại, các ông đã không đọc trong sách Môsê đoạn nói về bụi
gai sao ? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: "Ta là Thiên
Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, và Thiên Chúa của Giacóp". (27)
Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm
to !"
c) Điều răn đứng đầu
(28) Có một
người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh
luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi: "Thưa
Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?" (29) Đức Giêsu trả lời:
"Điều răn đứng đầu là: Nghe đấy, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng
ta, là Đức Chúa duy nhất. (30) Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. (31) Điều răn
thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào
khác lớn hơn các điều răn đó". (32) Ông kinh sư nói với Đức Giêsu:
"Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài
Người ra không có Đấng nào khác. (33) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí
khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ
toàn thiêu và hy lễ". (34) Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như
vậy, thì bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu !" Sau đó, không
ai dám chất vấn Người nữa.
d) Đấng Kitô là con và là Chúa của vua Đavít
(35) Khi
giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giêsu lên tiếng hỏi: "Sao các kinh sư lại nói
Đấng Kitô là con vua Đavít ? (36) Chính vua Đavít được Thánh Thần soi sáng đã
nói:
Đức Chúa
phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch
thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con.
(37) Chính
vua Đavít gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì do đâu Đấng Kitô lại là con vua ấy
được ?" Đám người đông đảo nghe Đức Giêsu cách thích thú.
Kết luận: "Coi chừng những ông kinh sư !"
(38) Trong
lúc giảng dạy, Đức Giêsu nói rằng: "Anh em phải coi chừng những ông kinh
sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở
những nơi công cộng. (39) Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi
cỗ nhất trong đám tiệc. (40) Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ
đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn".
Phụ trương: Đồng xu của bà goá nghèo
(41) Đức
Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem
đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. (42) Cũng
có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng
bạc Rôma. (43) Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói:"Thầy bảo thật anh
em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. (44) Quả vậy, mọi người
điều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ
cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để
sống".
Chương 13
Về ngày Giêrusalem bị tàn phá và ngày tận thế
(1) Đang khi
Đức Giêsu ra khỏi Đền Thờ, thì một trong các môn đệ nói với Người: "Thưa
Thầy, Thầy xem: đá lớn thật ! Công trình kiến trúc vĩ đại thật ! (2) Đức Giêsu
đáp: "Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư ? Tại đây, sẽ không còn tảng đá
nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ".
(3) Lúc Đức
Giêsu ngồi trên núi Ôliu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phêrô, Giacôbê, Gioan
và Anrê hỏi riêng Người: (4) "Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các
sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo
trước?"
(5) Đức
Giêsu bắt đầu nói với các ông: "Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa
gạt. (6) Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính Ta đây !",
và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. (7) Khi anh em nghe có giặc giã và tin đồn
giặc giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là
chung cục. (8) Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước
nọ. Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là
khởi đầu các cơn đau đớn.
(9)
"Phần anh em, anh em hãy coi chừng ! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội
đồng; tại các hội đường, anh em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua
chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết. (10) Nhưng trước tiên,
Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc.
(11)
"Khi người ta điệu anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì,
nhưng trong giờ đó, Thiên Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy:
thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần nói. (12) Anh em sẽ nộp
nhau cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và
làm cho cha mẹ phải chết. (13) Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.
Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
(14)
"Khi anh em thấy Đồ Ghê Tởm Khốc Hại đứng ở nơi nó không được phép đứng
-người đọc hãy lo mà hiểu !, thì bấy giờ ai ở miền Giuđê, hãy trốn lên núi;
(15) ai ở trên sân thượng thì đừng xuống và đừng vào lấy gì ra khỏi nhà; (16)
ai ở ngoài đồng, đừng trở lại lấy áo choàng của mình. (17) Khốn thay những
người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó ! (18) Anh
em hãy cầu xin cho điều ấy đừng xảy ra vào mùa đông. (19) Vì những ngày đó sẽ
là những ngày gian nan đến mức từ lúc khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo thành vạn
vật cho đến bây giờ, chưa khi nào xảy ra và sẽ không còn xảy ra như vậy nữa.
(20) Nếu Chúa không rút ngắn những ngày ấy lại, thì không ai được cứu thoát;
nhưng vì những kẻ Người đã tuyển trọn. Người đã rút ngắn những ngày ấy lại.
(21) Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: "Này, Đức Kitô ở đây ! Kìa, Đức Kitô ở
đó !", anh em đừng có tin. (22) Thật vậy, sẽ có những Kitô giả và ngôn sứ
giả xuất hiên, làm những dấu lạ và những việc phi thường, để lừa gạt những
người đã được tuyển chọn, nếu có thể. (23) Phần anh em, hãy coi chừng: Thầy đã
báo trước tất cả cho anh em !
(24)
"Nhưng trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối
tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, (25) Các ngôi sao từ trời sa xuống, và các
quyền lực trên trời bị lay chuyển. (26) Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy
quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. (27) Lúc đó, Người sẽ sai
các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn
phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.
(28)
"Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà tìm hiểu. Khi cành nó mềm ra và trổ lá,
thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. (29) Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy
ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. (30) Thầy bảo
thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. (31)
Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.
(32)
"Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên
trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.
(33)
"Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời
ấy đến. (34) Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các
đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa
phải canh thức. (35) Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào
chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. (36) Anh em
phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. (37)
Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải
canh thức !"
Chương 14
3. Cuộc Thương Khó và Phục Sinh
Dẫn nhập: Âm mưu và chuyện xức dầu thơm ở Bêtania
(1) Hai ngày
trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng
mưu bắt Đức Giêsu và giết đi; (2) vì họ nói: "Đừng làm vào chính ngày lễ,
kẻo dân chúng náo động".
(3) Lúc đó,
Đức Giêsu đang ở làng Bêtania, tại nhà ông Simon Cùi. Giữa lúc Người dùng bữa,
có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng
nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. (4) Có vài
người lấy làm bực tức, nói với nhau: "Phí dầu thơm như thế để làm gì ? (5)
Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người
nghèo". Rồi họ gắt gỏng với cô. (6) Nhưng Đức Giêsu bảo họ: "Cứ để
cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện ? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. (7)
Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc
cho họ bao giờ mà chẳng được ! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu ! (8) Điều gì
làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai
táng. (9) Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp
thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô".
(10) Và
Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp
Người cho họ. (11) Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giuđa liền tìm
cách nộp Người sao cho tiện.
Âm thầm: Tiệc Ly và cầu nguyện tại Ghếtsêmania
(12) Ngày
thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ
thưa với Đức Giêsu: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở
đâu?" (13) Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào thành,
và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. (14)
Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: 'Cái phòng dành
cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu ?' (15) Và ông ấy sẽ chỉ
cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó,
các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta". (16) Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành
các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
(17) Chiều
đến, Đức Giêsu tới cùng với Nhóm Mười Hai. (18) Đang khi dùng bữa, Người nói:
"Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người
đang cùng ăn với Thầy". (19) Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi
Người: "Chẳng lẽ con sao?" (20) Người đáp: "Chính là một trong
Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. (21) Đã hẳn, Con
Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người:
thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn !"
(22) Cũng
đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho
các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy". (23) Và Người
cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén
này. (24) Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn
người. (25) Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho
nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước Thiên
Chúa".
(26) Hát
thánh vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. (27) Đức Giêsu nói
với các ông: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh
người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. (28) Nhưng sau khi sống lại, Thầy sẽ đến
Galilê trước anh em". (29) Ông Phêrô liền thưa: "Dầu tất cả có vấp
ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không". (30) Đức Giêsu nói với ông:
"Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì
chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần". (31) Nhưng Phêrô lại nói quả
quyết hơn: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy". Tất
cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.
(32) Sau đó,
Đức Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghếtsêmani. Người nói với các
ông: "Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện". (33) Rồi Người
đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thẩy hãi hùng
xao xuyến. (34) Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được.
Anh em ở lại đây mà canh thức". (35) Người đi xa hơn một chút, quỵ xuống
đất mà cầu xin cho giờ ấy rời khỏi mình, nếu có thể được. (36) Người nói:
"Ápba, Cha ơi ! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén
này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha". (37) Rồi Người trở
lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: "Simon, anh ngủ à ?
Anh không thức nổi một giờ sao? (38) Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa
chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối". (39)
Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. (40) Rồi Người trở lại, thấy
các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với
Người. (41) Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông: "Lúc này mà còn ngủ,
còn nghỉ sao ? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường
tội lỗi. (42) Đứng dậy, ta đi nào ! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới !"
Công khai:
a)Đức Giêsu bị bắt
(43) Ngay
lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất
hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các
thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến. (44) Kẻ nộp Đức Giêsu đã cho họ một ám
hiệu, hắn dặn rằng: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và
điệu đi cho cẩn thận". (45) Vừa tới, Giuđa tiến lại gần Người và nói:
"Thưa Thầy !", rồi hôn Người. (46) Họ liền tra tay bắt Người. (47)
Nhưng một trong những kẻ đang có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ
của thượng tế, làm nói đứt tai.
(48) Đức
Giêsu nói với họ: "Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt tôi như bắt một
tên cướp vậy ? (49) Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ,
mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm".
(50) Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. (51) Trong khi đó có một cậu
thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh.
(52) Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.
Đức Giêsu bị người Dothái kết án vì là Mêsia
(53) Họ điệu
Đức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư, tất cả đều tựu
lại. (54) Ông Phêrô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh thượng tế, và ngồi
sưởi bên đống lửa với bọn lính canh.
(55) Bấy giờ
các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giêsu để
lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, (56) vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian
tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. (57) Có vài kẻ
đứng lên cáo gian Người rằng: (58) "Chúng tôi nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá
Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ
Khác, không phải do tay người phàm !" (59) Nhưng ngay về điểm này, chứng
của họ không ăn khớp với nhau.
(60) Bấy giờ
vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Đức Giêsu: "Ông không nói lại được
một lời sao ? Mấy người này tố cáo ông gì đó?" (61) Nhưng Đức Giêsu vẫn
làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Người: "Ông có phải
là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không ?" (62) Đức Giêsu trả lời:
"Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng
và ngự giá mây trời mà đến". (63) Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói:
"Chúng ta cần gì nhân chứng nữa ? (64) Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến
Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao ?" Tất cả đều lên án Người đáng chết.
(65) Thế là
một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa
nói: "Hãy nói tiên tri đi !" Và bọn lính canh túm lấy Người mà tát
túi bụi.
(66) Ông
Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của thượng tế đi tới; (67) thấy ông
ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở
với cái ông Người Nadarét, ông Giêsu đó chứ gì !" (68) Ông liền chối:
"Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì !" Rồi ông bỏ đi ra phía
tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy. (69) Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói
với những người đứng đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy". (70)
Nhưng ông Phêrô lại chối. Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông:
"Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilê !" (71)
Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng; "Tôi thề là
không có biết người các ông nói đó !" (72) Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ
hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Đức Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp gáy
hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần". Thế là ông oà lên khóc.
Chương 15
(1) Vừa tảng
sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể
Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô.
c) Đức Giêsu bị người ngoại kết án vì là Vua
(2) Ông
Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Dothái sao ?" Người trả lời:
"Chính ngài nói đó". (3) Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, (4)
nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao ? Nghe kìa, họ tố
cáo ông biết bao nhiêu tội !" (5) Nhưng Đức Giêsu không trả lời gì nữa,
khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.
(6) Vào mỗi
dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho họ một người tù, tuỳ ý họ xin. (7) Khi
ấy có một người tên là Baraba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết
người trong một vụ nổi dậy. (8) Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân
xá như thường lệ. (9) Đáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có
muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Dothái không?" (10) Bởi ông thừa
biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. (11) Nhưng các thượng tế sách
động đám đông đòi ônbg Philatô phóng thích tên Baraba thì hơn. (12) Ông Philatô
lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân
Dothái ?" (13) Họ la lên: "Đóng đinh nó vào thập giá !" (14) Ông
Philatô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác ?" Họ càng la
to: "Đóng đinh nó vào thập giá !" (15) Vì muốn chiều lòng đám đông,
ông Philatô phóng thích tên Baraba, truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Người
cho họ đóng đinh vào thập giá.
(16) Lính
điệu Đức Giêsu vào bên trong dinh, tức là dinh tổng trấn và tập trung cả cơ đội
lại. (17) Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương
miện đặt lên đầu Người. (18) Rồi chúng chào bái Người: "Vạn tuế đức vua
dân Dothái !" (19) Chúng dùng cây sậy đập đầu Người, khạc nhổ vào Người,
và quỳ gối bái lạy. (20) Chế giễu chán, chúng lột áo điều Người ra để đóng đinh
vào thập giá.
d) Đức Giêsu chịu đóng đinh thập giá và chết
(21) Lúc ấy,
có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Kyrênê. Ông là
thân phụ hai ông Alêxanđê và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu.
(22) Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Đồi Sọ.
(23) Chúng
trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. (24) Chúng đóng đinh
Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái
gì. (25) Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. (26) Bản án xử tội Người viết
rằng: "Vua người Dothái". (27) Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh
hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. [(28) Thế là ứng nghiệm lời
Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.]
(29) Kẻ qua
người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Đền
Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, (30) có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà
cứu mình đi !" (31) Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy,
họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. (32) Ông
Kitô vua Ítraen ấy, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và
tin". Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.
(33) Vào giờ
thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. (34) Vào giờ thứ
chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: "Êlôi, Êlôi, lama sabácthani !" Nghĩa
là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?" (35)
Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Êlia".
(36) Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây
sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: "Để xem ông Êlia có đến đem hắn xuống
không. (37) Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. (38) Bức màn
trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. (39) Viên đại đội
trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói:
"Quả thật, người này là Con Thiên Chúa".
(40) Nhưng
cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Mácđala, bà Maria
mẹ các ông Giacôbê thứ và Gioxê, cùng bà Salômê. (41) Các bà này đã đi theo và
giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với
Người lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó.
d) Đức Giêsu được mai táng
(42) Chiều
đã đến, mà vì hôm ấy lại là ngày sửa soạn, tức là áp ngày sabát, (43) nên ông
Giôxép tới. Ông là người thành Arimathê, thành viên có thế giá của hội đồng, và
cũng là người vẫn mong đợi Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp
tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu. (44) Nghe nói Người đã chết, ông
Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người
đã chết lâu chưa. (45) Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã
cho ông Giôxép lãnh lấy thi hài. (46) Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức
Giêsu xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn
trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. (47) Còn bà Maia Mácđala và bà Maria
mẹ ông Gioxê, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.
Chương 16
Lời bạt: mồ trống
(1) Vừa hết
ngày sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu
thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc
mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
(3) Các bà
bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây ?" (4) Nhưng
vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn
lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo
trắng; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: "Đừng hoảng
sợ ! Các bà tìm Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì ! Người đã chỗi dậy
rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này ! (7) Xin các bà về nói với
môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông
sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông". (8) Vừa ra khỏi mộ, các
bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì
sợ quá.
Phụ trương: Các lần Đức Giêsu hiện ra
(9) Sau khi
sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước
tiên với bà Maria Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. (10) Bà đi
báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. (11)
Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.
(12) Sau đó,
Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi
họ đang trên đường đi về quê. (13) Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng
các ông ấy cũng không tin hai người này.
(14) Sau
cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người
khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những
kẻ đã được thấy Người sau khi Người sống lại. (15) Người nói với các ông:
"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ
tạo. (16) Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị
kết án. (17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh
Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được
rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên
những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ".
(19) Nói
xong, Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các
Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và
dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
=====//////=====
Lm Giuse Phạm Thanh Minh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét