Lễ Vọng Phục Sinh

Thánh lễ Vọng Phục Sinh diễn ra trong bầu khí trang nghiêm và thành công tốt đẹp

Lễ Kỷ Niệm Bổn Mạng Cha Chánh Xứ

Giáo xứ Chợ Cũ mừng bổn mạng Cha Sở Giuse nhân dịp lễ quan thầy ngày 19-3. Sau lễ Cha phát quà cho bà con giáo dân để cùng chia vui trong ngày trọng đại này.

Thiếu Nhi Thánh Thể Giáo Xứ Chợ Cũ

Thiếu nhi Thánh Thể Giáo xứ Chợ Cũ sinh hoạt cuối tuần chung với hai bạn người Pháp.

Kỷ Niệm Ba Năm Hồng Ân Linh Mục - Cha Phó Antôn

Giáo xứ Chợ Cũ mừng kỷ niệm ba năm hồng ân linh mục của Cha phó Antôn Phạm Trần Huy Hoàng nhân dip Lễ Truyền Tin

Mừng Xuân Đinh Dậu 2017

Giáo xứ Chợ Cũ cùng nhau đón tết cổ truyền của dân tộc, có nhiều tiết mục đặc sắc và ý nghĩa.

Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2015

GIÁO LÝ KINH THÁNH. DẪN NHẬP TIN MỪNG THEO THÁNH GIOAN

GIÁO LÝ KINH THÁNH.


DẪN NHẬP
TIN MỪNG THEO THÁNH GIOAN
CẤU TRÚC
Có nhiều kiểu phân chia sách Tin Mừng thứ IV. Mỗi kiểu phân chia dựa trên vài điểm làm nền tảng. Khó có thể hướng về một kiểu nhất định, duy nhất. Vì thế, xin tạm đề nghị kiểu phân chia sau đây tương đối hợp lý hơn cả.
Kiểu phân chia này dựa vào các lễ phụng vụ Do thái (3 lễ vượt qua: 2,13; 6,4; 11,55 - một lễ không được xác định: 5,1 - lễ lều: 7,2 - lễ cung hiến đền thờ: 10,22) và cách phân chia cuộc đời Đức Giêsu thành những giai đoạn rõ rệt (tuần lễ): (tuần lễ khai mạc: 1,19-2,11 - tuần lễ lều: 7,2.14.37 - tuần lễ thương khó: 12,1.12; 19,31.42, nằm giữa việc mai táng thực thụ: 19,38tt). Với những yếu tố vừa kể, có thể phân chia sách Tin Mừng thứ IV như sau:
1. Loan báo nhiệm cục mới (1,19-12,50)
2. Lễ thứ II tại Giêrusalem (5,1-47)
3. Lễ vượt qua. Diễn từ về bánh trường sinh (6,1-7,1)
4. Lễ lều (7,1-10,21)
5. Lễ cung hiến đền thờ (10,22-11,54)
6. Sứ vụ công khai của Đức Giêsu kết thúc (11,55-12,50)
1. Bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ (13,1-17,26)
2. Cuộc Thương Khó (18,1-19,42)
3. Ngày Phục Sinh (20,1-29)
4. Kết luận thứ nhất (20,30-31)
TIN MỪNG VÀ SÁCH TIN MỪNG THEO THÁNH GIOAN
Ga 20,31 làm nổi bật mục tiêu của sách Tin Mừng thứ IV: "Những điều đã được chép ở đây (trong sách này) là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người". Đó là sách Tin Mừng đem tin vui cho những kẻ tin vào Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa: ai tin vào Người thì được sự sống nhờ danh Người. Như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Gioan trình bày những nét chính yếu của lời rao giảng tiên khởi (Kerygma): ông Gioan Tẩy Giả làm chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia nhờ Thánh Thần ngự xuống (1,31-34); Đức Giêsu dùng việc làm và lời nói nhằm mặc khải Thiên Chúa và hoạt động cứu độ của Người (1,35-12,50); trình thuật về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giêsu cũng như những cuộc hiện ra của Người (13,1-20,20); sứ mạng trao cho các Tông Đồ (20,21). Nhưng sách Tin Mừng thứ IV có nhiều điểm khác biệt với các sách Tin Mừng Nhất Lãm: cấu trúc, niên đại, cách trình bày các phép lạ và lời nói của Đức Giêsu, cách tường thuật cùng những sự kiện như các sách Tin Mừng Nhất Lãm... Sự khác biệt thiết yếu vẫn là cái nhìn về mầu nhiệm Đức Kitô. Đối với sách Tin Mừng thứ IV, Đức Kitô không chỉ là Đấng Mêsia đến trần gian nhằm làm ứng nghiệm những lời tiên báo của các ngôn sứ Cựu Ước và thiết lập Nước Trời (Mátthêu); Người cũng không chỉ là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa (Máccô), hoặc là Vị Cứu Chúa đến công bố sứ điệp diễn tả lòng khoan dung của Người đối với nhân loại (Luca). Theo tác giả của Gioan, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia mang đến cho thế gian đức tin và sự sống đời đời (20,31).
TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH SÁCH TIN MỪNG IV
Nói chung, Gioan cho độc giả cảm tưởng đó là cuốn sách có sự duy nhất. Nhưng khi đọc kỹ, độc giả sẽ nhận thấy những dấu vết của một tình trạng thiếu trật tự nào đó ít nhất bên ngoài: cuốn sách không tiến triển đều đặn; độc giả gặp những đoạn như nằm ngoài mạch văn:
* Ga 3,22-30 như làm đứt đoạn diễn từ của Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô. Đặt 3,31 ngay sau 3,21 thì hợp lý hơn.
* Đáng lẽ ch.6 phải nằm giữa ch. 4 và ch. 5. Như thế lộ trình của Đức Giêsu sẽ như sau: từ miền Giuđê, Người đến miền Galilê (4,54), sang bên kia biển hồ Galilê (6,1), rồi Người lên Giêrusalem (5,1) và trở về Galilê (7,1).
* Phải hơn Ga 10,19-21 nằm ngay sau 9,41, vì c. 20,21 có cùng chung một chủ đề với ch. 9. Ga 14,31 phải là câu kết của bài diễn từ cáo biệt. Như thế, các ch. 15 và 16 đáng lẽ phải ở nơi nào đó trước câu này.
* Ga 20,30-31 là đoạn kết của Gioan. Rõ ràng, Ga 21 là một phụ trương.
* Ga 7,53-8,11 không nằm trong mạch văn trước và sau. Theo văn thể và cách hành văn, đoạn này rất gần truyền thống Nhất Lãm, cách riêng Luca.
* Ga 5,3b-4: nhiều bản chép tay quan trọng bỏ những câu này. Ngày nay, các học giả thường công nhận: đó là lời chú nhằm cắt nghĩa c. 7 nói đến nước khuấy lên.
* Ga 12,44-50 nằm ở ngoài mạch văn.
Những điều dị thường kể ở trên xuất phát từ cách thức Gioan đã được soạn thảo và xuất bản: đó là tình trạng các vật liệu được dùng tăng dần theo thời gian, qua những lần xuất bản kế tiếp nhau. Công việc soạn thảo và xuất bản ấy đòi phải sửa chữa, thêm bớt... Trong tiến trình hình thành của Gioan, vài học giả nhận ra năm giai đoạn :
- Giai đoạn I: Trước hết, có một tổng thể các vật liệu thuộc truyền khẩu liên quan đến lời nói, việc làm của Đức Giêsu. Những vật liệu đó giống như các vật liệu đã cấu thành các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng phát xuất từ một nguồn khác.
- Giai đoạn II: Trong một giai đoạn có lẽ đã kéo dài qua nhiều thập niên, những vật liệu ấy đã được tuyển chọn, suy đi nghĩ lại và uốn nắn thành những trình thuật riêng biệt và những diễn từ trong khi rao giảng và giáo huấn. Vào cuối giai đoạn thứ hai này, người ta bắt đầu ghi lại những vật liệu dùng trong công việc rao giảng và giáo huấn. Kiểu hành văn trong đoạn 7,53-8,11 hoặc ch. 21 chẳng hạn... không giống kiểu hành văn của những đoạn khác trong Gioan. Đó là dấu vết của nhiều tác giả đã góp phần soạn thảo. Nhưng nói cách chung, phần lớn tác phẩm phát xuất từ một nguồn chính. Chắc nguồn chính đó phải là một môn phái thần học quy tụ chung quanh một vị tôn sư. Vị tôn sư này đóng vai trò chính yếu trong tiến trình hình thành của tác phẩm.
- Giai đoạn III: Những vật liệu ghi lại đó được sử dụng để cấu thành một tác phẩm. Đó là sách Tin Mừng trong lần xuất bản đầu tiên. Chắc vị tôn sư đã có sáng kiến thực hiện tác phẩm này. Và theo vài học giả, vị tôn sư đó chính là tác giả sách Tin Mừng. Tác phẩm này không gom lại tất cả các vật liệu do truyền thống Gioan cung cấp.
- Giai đoạn IV: Rồi tác giả sách Tin Mừng cho xuất bản tác phẩm lần thứ hai. Có những đoạn hoặc phần mới lạ được ghép vào nhằm đáp ứng những nhu cầu mới hoặc giải đáp những vấn nạn do vài nhóm nêu lên: các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, những tín hữu gốc Dothái...
- Giai đoạn V: Sau hết, một (hoặc các) nhân vật gọi là "soạn giả", đồ đệ hay bạn thân của tác giả, đảm nhận công việc xuất bản tác phẩm lần thứ ba. Lần xuất bản này là thành quả của công việc đem vào tác phẩm thuộc giai đoạn IV những vật liệu thuộc truyền thống Gioan chưa nằm trong tác phẩm.
TÁC GIẢ CHÍNH
Như thế, sách Tin Mừng IV không chỉ có một tác giả duy nhất. Rất nhiều người đã đóng góp vào truyền thống Gioan: truyền khẩu, các đơn vị văn chương... Ngoài ra, còn có tác giả chính và soạn giả hoặc những soạn giả...
Nhưng tác giả chính là ai? Theo truyền thống, tông đồ Gioan, con ông Dêbêđê và em ông Giacôbê, đã viết sách Tin Mừng thứ IV. Cuối thế kỷ thứ II, vào năm 180, thánh Irênê (trong cuốn Adversus Haereses III,1,1) Quy điển của Muratori (165-185), ông Cơlêmentê thành Alêxanria (qua đời vào 211-216) đã quả quyết điều đó. Sách Tin Mừng thứ IV không ghi tên tác giả. Ga 21,20 nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Theo 21,24, "chính môn đệ này làm chứng về những điều đó (= những sự kiện kể trong Gioan) và đã viết ra".
Người môn đệ ấy là ai? Trong bữa Tiệc Ly, người môn đệ ấy để đầu tựa vào lòng Đức Giêsu (Ga 13,23). Ông đứng gần thập giá, khi Đức Giêsu giao phó thân mẫu cho mình (Ga 19,26). Sáng sớm Chúa Nhật Phục Sinh, ông và ông Phêrô chạy ra mộ (Ga 20,2.3.4.8). Ở trên bãi biển hồ Tibêria, ông nhận ra Đức Giêsu trước các môn đệ khác (Ga 21,7); ông là đối tượng của cuộc nói chuyện giữa Đức Giêsu và ông Phêrô (Ga 21,20-23).
Chắc chắn "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" phải là một Tông Đồ, vì dựa vào các sách Tin Mừng Nhất Lãm chúng ta thấy: chỉ có các Tông Đồ mới có mặt trong bữa Tiệc Ly. Theo cách diễn tả của Gioan, người môn đệ đó thuộc nhóm ba môn đệ thân tín của Đức Giêsu. Môn đệ đó không phải là ông Phêrô, vì ông Phêrô ở gần bên ông ấy mấy lần (Ga 13,23-24; 20,2-4.6.8-10; 21,20-23). Môn đệ đó cũng không phải là ông Giacôbê đã chịu tử đạo vào năm 44 (x. Cv 12,2), còn môn đệ đó thì lại sống khá lâu theo Ga 21,20-23. Như thế, có lẽ phải kết luận rằng môn đệ đó chính là Tông đồ Gioan.
NƠI VÀ NĂM SOẠN THẢO
Sách Tin Mừng thứ IV đã được soạn thảo tại miền Tiểu Á theo lời chứng của lời tựa chống Máckiôn, của thánh Giêrônimô và Êpiphan. Thánh Irênê nói rõ: tại Êphêxô. Nói chung, các học giả công nhận ý kiến này. Nhưng cũng có vài nhân vật như thánh Eprem, ông Tatianô... lại chủ trương: Antiôkhia, xứ Xyria, mới là nơi soạn thảo. Dĩ nhiên, thánh Gioan đã rao giảng tại Antiôkhia. Nhưng theo truyền thống, ngài đã qua giai đoạn sau cùng trong cuộc đời, một giai đoạn khá dài, tại Êphêxô. Có lẽ vì lý do đó, chung chung người ta đã chọn Êphêxô hơn là Antiôkhia. Bởi vì sách Tin Mừng thứ IV không phải chỉ có một tác giả duy nhất, nên chắc phải phân biệt như sau: 1) những phần của chính thánh Gioan đã được soạn thảo tại Êphêxô; 2) còn về các phần khác do (các) soạn giả và các môn đệ của thánh Gioan soạn thảo, thì khó mà xác định được là ở Êphêxô hoặc ở nơi khác.
Về năm soạn thảo, chúng ta chỉ có thể đưa ra một ý kiến có khả năng đúng. Sách Tin Mừng thứ IV được người ta cho biết đến từ tiền bán thế kỷ thứ II, vì đã được trích dẫn hay đã gây ảnh hưởng: thánh Giúttinô (Apologie 61,4) (vào năm 150); Hermas (Pasteur) (vào năm 140); thánh Pôlycáp (Thư gửi các tín hữu Philípphê) (vào năm 110); thánh Inhaxiô Antiôkhia (các thư) (vào năm 110); tác phẩm Odes de Salomon (tiền bán thế kỷ thứ II); sách viết trên giấy cói Rylands 457... Theo thánh Irênê và ông Cơlêmentê Alêxanria, có lẽ thánh Gioan đã sống đến thời hoàng đế Tragianô (98-117). Như thế, nếu trừ đi thời gian cần thiết để phổ biến sách Tin Mừng, chúng ta có thể nghĩ rằng một số phần thuộc sách Tin Mừng thứ IV đã được soạn thảo vào những năm cuối của thế kỷ thứ I.
ĐẠO LÝ
Mỗi tác giả sách Tin Mừng có một cái nhìn độc đáo về mầu nhiệm Đức Giêsu và sứ mạng của Người đối với nhân loại. Theo Gioan, Đức Giêsu là Ngôi Lời tiên hữu trong Thiên Chúa (1,1.2) trở nên người phàm (1,14), vì được Chúa Cha sai xuống thế gian (3,17.34; 4,34; 5,36; 6,29; 7,28-29; 8,16.18.26.42; 10,36; 11,42; 17,3.25) để thực hiện một sứ mạng. Sau khi hoàn thành sứ mạng ấy, Người trở về cùng Chúa Cha (7,33; 13,3; 16,5; 17,11.13.23; 20,17). Đó là mầu nhiệm nhập thể nhắm mục tiêu phục vụ Thiên Chúa là Đấng muốn cứu độ thế gian. Đạo lý của Gioan thiết yếu được rút từ Ga 20,31.
I. Mầu nhiệm Đức Giêsu và sứ mạng cứu độ của Người
Trước hết, mục đích của Gioan là làm nổi bật mầu nhiệm Đức Giêsu: Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô (20,31a).
Đối với Thiên Chúa, Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (1,14,18; 3,16-18), được Chúa Cha yêu mến (5,20; 15,9; 17,23-24.26), luôn hợp nhất, sống mật thiết và hành động chặt chẽ với Chúa Cha (10,30.38; 14,10-11.20; 17,21-23). Chúa Cha đã trao cho Người nhiệm vụ thực hiện công trình cứu độ (3,17). Vì thế, nỗi ưu tư khắc khoải của Đức Giêsu, lẽ sống không thể thiếu thì giống như lương thực nuôi sống Đức Giêsu, đó là "thi hành ý muốn" của Chúa Cha và "hoàn tất công trình của Người" (4,34).
Đối với nhân loại, Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Kitô (1,41; 4,25-26), nghĩa là "Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn" (1,34), được Thiên Chúa sai đi thực hiện sứ vụ cứu thế (4,42) với tư cách ngôn sứ, tư tế và quân vương.
Ở trong cung lòng Chúa Cha, Ngôi Lời đã thấy, đã nghe tất cả những gì xảy ra trong Thiên Chúa (1,18; 3,11.32; 8,38). Vì thế, Ngôi Lời nhập thể là Chứng nhân có đủ tư cách nhất để diễn tả ý định cứu độ của Chúa Cha, chuyển đạt các lời và giáo huấn của Người (3,32.34; 6,46; 7,29; 8,26.28.38.40; 12,49.50; 14,24; 17,8.14). Đức Giêsu tuyên bố: Người là: "ánh sáng cho thế gian" (1,4.7.9; 9,5; 12,46), ánh sáng ban ánh sáng cho người mù từ thủa mới sinh (9,6tt), cho những ai không muốn bước đi trong bóng tối (12,35)... Người là "con đường", bởi vì Người là "sự thật" (14,6): Người tỏ bày Chúa Cha (12,45; 14,9), Người dẫn tới Chúa Cha, cho biết Chúa Cha (1,18; 14,6-7); Người còn tỏ bày chính bản thân và sứ mạng của mình đối với nhân loại. Những hoạt động đó đều thuộc vai trò Ngôn Sứ thực hiện công việc mặc khải.
Gioan ít nhấn mạnh đến sứ mạng Tư Tế của Đức Giêsu. Trong cả sách, chỉ có ch. 17 đề cập vấn đề này. Nói chung, Ga 17,1-26 được gọi là "Lời cầu nguyện của vị thượng tế". Khi "được giương cao lên khỏi mặt đất" (12,321), khi dâng hy lễ trên đồi Gôngôtha, với tư cách thượng tế của Giao Ước Mới, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha cho các môn đệ và tất cả những kẻ sẽ tin vào Người nhờ lời rao giảng của các ông. C. 19 ("Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con") có nghĩa sau đây: Đức Giêsu tự tách ra khỏi đám phàm nhân để thuộc trọn về Thiên Chúa, bằng việc hiến dâng chính mình làm lễ vật trong hy lễ Gôngôtha với tư cách thượng tế nhằm gây lợi ích cứu độ cho các môn đệ và tín hữu.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia hoặc Kitô, vì Người có nhiệm vụ thi hành sứ mạng Quân Vương. Thi hành sứ mạng quân vương là thực hiện chủ quyền trên thiên nhiên, ma quỷ, bệnh tật, cái chết và tội lỗi, là trải qua cuộc Thương Khó để chiến thắng cái chết nơi mình và nơi nhân loại. Nhờ thế, Đức Giêsu trở thành Đấng hướng dẫn, cai trị, chăm sóc đoàn dân (Mục Tử, Quân Vương), Đấng ban sự sống...
Gioan không sử dụng từ "phép lạ" ("téras", "térata"), nhưng dùng từ "dấu lạ" ("semeion", "semeia") để chỉ những việc lạ lùng, những kỳ công do Đức Giêsu làm nhân danh Thiên Chúa (3,2) nhằm thúc giục những người chứng kiến tin rằng sứ mạng của mình phát xuất từ Thiên Chúa (2,11; 9,33; 11,40-42). Gioan thường sử dụng từ "dấu lạ" nói chung (2,23; 3,2; 7,31; 9,16; 11,47; 12,37; 20,30). Tác giả sách Tin Mừng thứ IV không hề nói đến tương quan giữa "dấu lạ" và sứ mạng tư tế. Chỉ một lần (6,14), độc giả nhận thấy có liên lạc giữa "dấu lạ" và sứ mạng ngôn sứ; lần khác (2,11), "dấu lạ" đầu tiên tại Cana được liên kết với vinh quang của Đức Giêsu. Ngoài ra, ở ba nơi (4,54; 6,2; 12,18), Đức Giêsu làm các "dấu lạ" có liên quan đến sức khỏe, đến sự sống của con người: Người cho người con trai sắp chết của một sĩ quan được lành bệnh (4,54); Người chữa lành những kẻ đau ốm (6,2); Người cho ông Ladarô được sống lại (11,1-44; 12,18). Ngoài chuyện làm các "dấu lạ" để phục hồi sức khỏe hay sự sống, Đức Giêsu còn tỏ bày chủ quyền của Người trên thiên nhiên (2,11; 6,10-13.26), bệnh tật (4,46-54; 5,1tt; 6,2; 9,1tt) trên cái chết (11,17.23.5.43-44; 12,9.17), trên ma quỷ (1,5; 12,31; 14,30; 16,11) và tội lỗi (8,36)... Tất cả sứ mạng của Đức Giêsu quy hướng về "giờ" của Người (2,4; 7,30; 8,20; 12,23.27; 13,1; 17,1), giờ Người bỏ thế gian để về với Chúa Cha (13,1), giờ Người được tôn vinh bên hữu Chúa Cha (12,23; 17,1). Lúc đó là lúc Người được tôn vinh bên hữu Chúa Cha (12,23; 17,1). Lúc đó là lúc Người "được giương cao lên" theo hai nghĩa: "được gương cao lên" thập giá (12,32-33; 8,28) và "được giương cao lên" trời (3,13.14). Nhờ thế, Đức Giêsu trở thành vị Mục Tử nhân lành (10,11.14.16) biết chiên của mình (10,14.27), chăm sóc, hướng dẫn (10,4), bảo vệ đoàn chiên (10,29), ban sự sống dồi dào cho đoàn chiên (10,10), dẫn đưa những chiên khác về một ràn chiên duy nhất (10,16). Vai trò của Đức Giêsu cũng là vai trò của vị Quân Vương (1,49; 12,1). Thiên Chúa đã giao mọi sự trong tay Người (3,35; 13,3); Người có quyền năng trên mọi phàm nhân (17,2); không ai có thể cướp khỏi tay Người những kẻ thuộc về Người (10,28). Trình thuật về biến cố Đức Giêsu vào Giêrusalem cũng như trình thuật về cuộc Thương Khó làm nổi bật vai trò Quân Vương của Người (12,12-16 - 18,36.37; 19,13-15.19-22). Đức Giêsu đã tiến vào thành Giêrusalem với tư cách là Vua Mêsia (12,13): đó là một cuộc khải hoàn làm cho lời ngôn sứ Dacaria nên ứng nghiệm (12,15; x. Dc 9,9-10). Trong trình thuật về cuộc Thương Khó, những lời nói (18,33.37; 19,14-15) và cách xử sự (19,13.19-22) của tổng trấn Philatô cũng như những kiểu chế giễu của bọn lính Rôma (19,2-3.5) và phản ứng thù nghịch của các thượng tế (19,15.21) là những cách nhắc đi nhắc lại cho độc giả tước hiệu Quân Vương và làm đậm nét tước hiệu này. Nước của Đức Giêsu không phải là một nước trần gian như các nước khác; Người chẳng có thuộc hạ để bảo vệ bản thân (18,36). Quyền bính của Người thuộc lãnh vực thần linh của sự thật: Người đến làm chứng cho sự thật (18,37).
Với tư cách Con Thiên Chúa, Đức Giêsu vẫn giữ nơi mình vinh quang mà Người vẫn có bên Chúa Cha trước khi thế giới được tạo thành (17,5). Nhưng trong cuộc sống trần gian của Người, vinh quang đó được che giấu đi: Người không cho vinh quang đó chiếu tỏa vào nhân tính của mình. Đôi khi, Người hé mở vinh quang đó cho các Tông Đồ và các khán thính giả, như trong sự kiện biến đổi hình dạng trên núi (có lẽ Ga 1,14 ám chỉ đến sự kiện đó cách kín đáo; x. Mt 17,1tt; Mc 9,2tt; Lc 9,28tt), trong các "dấu lạ" Người làm (2,11; 11,40; 12,28a). Vinh quang đó sẽ được tỏ bày cách trọn vẹn hơn trong biến cố Vượt Qua: vinh quang Phục Sinh là chính vinh quang đời đời (17,22.24) tỏa chiếu trong ngày Đức Giêsu sống lại, nhưng đã bắt đầu từ lúc Người được giương cao lên thập giá (12,23.28b; 13,31-32; 17,1). Đức Giêsu ban cho các tín hữu vinh quang Người đã nhận từ Chúa Cha (17,22). Người cũng sẽ cho họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Người, khi họ được đoàn tụ với Người (17,24).
Gioan còn muốn đặt tương quan của Đức Giêsu với sự sống: Đức Giêsu là Đấng ban sự sống. Thiên Chúa nắm chủ quyền tuyệt đối trên sự sống. Người đã trao cho Đức Giêsu quyền làm chủ sự sống (5,21; 10,18; 17,2). Đức Giêsu mang sự sống nơi mình (1,4; 5,26), Người là sự sống (11,25; 14,6). Vì thế, Người ban sự sống cho các tín hữu (5,21; 6,35.48.51.57.58.63; 10,18). Và phương tiện Người sử dụng để ban sự sống, ấy là ban lời của Người (6,68) và trở nên "bánh trường sinh" (6,35.48), bánh đem lại sự sống cho các tín hữu (6,57-58).
II. Tín hữu và sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu
Phần II của mục "Đạo lý" dựa trên Ga 20, 31b: "Còn những điều đã chép ở đây là... để anh em Tin mà Được Sự Sống nhờ danh Người".
1. "Tin":
Đức Giêsu dùng các "dấu lạ" để khơi dậy đức tin nơi các khán giả 92,11.23; 4,45.53; 11,15.45.48). Lời rao giảng, giáo huấn của Đức Giêsu cũng nhắm mục tiêu tạo điều kiện cho đức tin nảy sinh nơi tâm hồn các thính giả (2,22; 4,41.50; 17,8). Ga 19,35 cho thấy: đức tin nơi các độc giả của Gioan phải dựa vào lời chứng của "chứng nhân" là tác giả. Tông đồ Gioan nhìn vào ngôi mộ trống, thấy các di vật còn để trong đó, cũng đã tin (20,8). Nhưng cuối cùng, đức tin của con người đặt vào chính Đức Giêsu: 1,7 (tin vào Đức Giêsu là "ánh sáng"); 4,39.42; 5,24.38 ; 6,29.35.37.44.45.65.70; 7,31.38.39; 8,24.30; 9,35-38; 10,37-38.42; 11,25-26.27.45; 12,11.36.42.44.46; 13,19; 14,1.11.12; 17,20.
Theo Gioan, tin là đón tiếp Đức Giêsu (1,12; 5,43), là nhận biết Chúa Cha và Đức Giêsu (17,3), là đến với Đức Giêsu (3,20-21; 5,40; 6,35.37.44.45; 7,37-38; 14,6), nhận ra Người là Đấng Chúa Cha sai đến thế gian (5,24.38; 17,8.21.23.25).
Nhiều người đã từ khước Đức Giêsu, không chịu đón nhận Người và lời của Người (3,32; 5,43; 6,36; 7,5; 8,45-46; 10,25-26; 12,37.48; 16,9). Họ không chịu tin như tông đồ Tôma đã không tin (20,25.27.29). Họ không tin, nên đã bị lên án rồi (3,18).
2. "Được sự sống":
Ai tin thì không bị lên án (3,18). Người Kitô hữu "có sự sống" nơi mình, vì được ăn thịt và uống máu Đức Giêsu (6,53), vì thuộc đoàn chiên của Người (10,10). Vì tin, nên tín hữu "có sự sống" hoặc "có sự sống đời đời" (3,15-16.36; 5,24.40; 6,40.47; 11,26; 20,31). "Sự sống đời đời" (3,15.16.36; 4,14; 5,24.39; 6,40.47.54.68; 10,28; 17,2-3; 20,31) là sự sống mới mà tín hữu lãnh nhận được trong thời cuối cùng như ân huệ do Đấng Mêsia mang đến. "Có sự sống đời đời" nơi mình là được hiệp thông với Thiên Chúa, Nguồn sống, là lĩnh nhận từ Thiên Chúa sự sống của Người. Sự sống mới đó làm cho tín hữu chiến thắng được cái chết. Sự sống đời đời còn được hiểu theo nhãn quan sêmít và Thánh Kinh về sự biết (X. 17,2-3). Theo nhãn quan này, sự biết không chỉ là sự nhận thức trừu tượng nằm trong lãnh vực trí óc, nhưng phát xuất từ một kinh nghiệm sống và được tình thương thấm nhuần. Vì thế, "có sự sống đời đời" là hiểu biết Chúa Cha cách thực thụ và trọn vẹn, yêu mến Người và gắn bó sâu xa với Người; sự hiểu biết và lòng yêu mến này chỉ đạt được khi tín hữu hiểu biết và yêu mến Chúa Kitô. Ngay từ bây giờ, tín hữu đã lĩnh nhận sự sống mới ấy rồi (3,36; 5,24; 6,40.68).
I. LỜI TỰA
Chương 1
(1) Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

(2) Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
(3) Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
(4) Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
(5) Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.

(6) Có một người được Thiên Chúa sai đến,
tên là Gioan.
(7) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
(8) Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
(9) Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
(10) Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
(11) Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
(12) Còn những ai đón nhận,
tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
(13) Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.

(14) Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.

(15) Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố:
"Đây là Đấng mà tôi đã nói:
Người đến sau tôi,
nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi."
(16) Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
(17) Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có.
(18) Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ;
nhưng Con Một là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
II. SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU
1. LOAN BÁO NHIỆM CỤC MỚI
A. TUẦN LỄ KHAI MẠC
Chương 1: (tiếp theo)
Lời chứng của ông Gioan
(19) Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Dothái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" (20) Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". (21) Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." (22) Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" (23) Ông nói:
Tôi là tiếng người hô trong hoang địa:
Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi,
như ngôn sứ I-sai-a đã nói. (24) Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. (25) Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?" (26) Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. (27) Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (28) Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.
(29) Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. (30) Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng:
Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.
(31) Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ítraen, tôi đến làm phép rửa trong nước." (32) Ông Gioan còn làm chứng: "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. (33) Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần". (34) Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn".
Các môn đệ đầu tiên
(35) Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. (36) Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa". (37) Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. (38) Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: "Các anh tìm gì thế?" Họ đáp: "Thưa Rápbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?" (39) Người bảo họ: "Đến mà xem". Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều.
(40) Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. (41) Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia" (nghĩa là Đấng Kitô). (42) Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha" (tức là Phêrô).
(43) Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê. Người gặp ông Philípphê và nói: "Anh hãy theo tôi". (44) Ông Philípphê là người Bétxaiđa, cùng quê với các ông Anrê và Phêrô.
(45) Ông Philípphê gặp ông Nathanaen và nói: "Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét". (46) Ông Nathanaen liền bảo: "Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?" Ông Philípphê trả lời: "Cứ đến mà xem!" (47) Đức Giêsu thấy ông Nathanaen tiến về phía mình, liền nói về ông rằng: "Đây đích thật là một người Ítraen, lòng dạ không có gì gian dối". (48) Ông Nathanaen hỏi Người: "Làm sao Ngài lại biết tôi?" Đức Giêsu trả lời: "Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi". (49) Ông Nathanaen nói: "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ítraen!" (50) Đức Giêsu đáp: "Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa". (51) Người lại nói: "Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người".
Chương 2:
Tiệc cưới Cana
(1) Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. (2) Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. (3) Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". (4) Đức Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến". (5) Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo".
(6) Ở đó có đặt sáu chum bằng đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Dothái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. (7) Đức Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ đổ đầy tới miệng. (8) Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc". Họ liền đem cho ông. (9) Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại (10) và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ". (11) Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người. (12) Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum và ở lại đó ít ngày.
B. LỄ VƯỠT QUA THỨ NHẤT
Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ
(13) Gần đến lễ Vượt Qua của người Dothái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. (14) Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. (15) Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. (16) Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán". (17) Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh:
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
(18) Người Dothái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" (19) Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại". (20) Người Dothái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" (21) Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. (22) Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói.
Đức Giêsu ở tại Giêrusalem
(23) Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. (24) Nhưng chính Đức Giêsu không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, (25) và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.
Chương 3:
Cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô
(1) Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Dothái. (2) Ông đến gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông nói với Người: "Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy". (3) Đức Giêsu trả lời:
"Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi ơn trên".
(4) Ông Nicôđêmô thưa: "Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao?" (5) Đức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. (6) Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là thần khí. (7) Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói:các ông cần phải được sinh ra bởi ơn trên. (8) Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy".
(9) Ông Nicôđêmô hỏi Người: "Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?" (10) Đức Giêsu đáp:
"Ông là bậc thầy trong dân Ítraen, mà lại không biết những chuyện ấy! (11) Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi. (12) Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được? (13) Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. (14) Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng,
để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa".
Sứ vụ của Đức Giêsu tại Giuđê, Lời chứng cuối cùng của ông Gioan
(22) Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đi tới miền Giuđê. Người ở lại nơi ấy với các ông và làm phép rửa. (23) Còn ông Gioan, ông cũng đang làm phép rửa tại Ênôn, gần Salêm, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa. (24) Lúc ấy, ông Gioan chưa bị tống giam.
(25) Bấy giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gioan và một người Dothái về việc thanh tẩy. (26) Họ đến gặp ông Gioan và nói: "Thưa Thầy, người trước đây đã ở với Thầy bên kia sông Giođan và được Thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông". (27) Ông Gioan trả lời:
"Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban".
(28) Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói: "Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người".
(29) Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn.
(30) Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi. (31) Đấng từ trên cao mà đến, thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến, thì ở trên mọi người; (32) Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. (33) Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. (34) Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. (35) Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. (36) Ai tin vào người Con, thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con, thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.
Chương 4:
Đức Giêsu tại Samari
(1) Nhóm Pharisêu nghe tin Đức Giêsu thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gioan. (2) (Thực ra, không phải chính Đức Giêsu làm phép rửa, nhưng là các môn đệ của Người). (3) Biết thế, Đức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở lại miền Galilê. (4) Do đó, Người phải băng qua Samari. (5) Vậy, Người đến một thành xứ Samari, tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. (6) Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
(7) Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống!" (8) Quả thế, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" Quả thế, người Dothái không được giao thiệp với nguòi Samari. (10) Đức Giêsu trả lời:
"Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống".
(11) Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? (12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy". (13) Đức Giêsu trả lời:
"Ai uống nước này, sẽ lại khát. (14) Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời".
(15) Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước". (16) Người bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây". (17) Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng". Đức Giêsu bảo: "Chị nói: 'Tôi không có chồng' là phải, (18) vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng". (19) Người phụ nữ nói với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ... (20) Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa". (21) Đức Giêsu phán:
"Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. (22) Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Dothái. (23) Nhưng giờ đã đến - và chính lúc này đây giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. (24) Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật".
(25) Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". (26) Đức Giêsu nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây".
(27) Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: "Thầy cần gì vậy?" Hoặc "Thầy nói gì với chị ấy?" (28) Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: (29) "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?" (30) Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
(31) Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: "Rápbi, xin mời Thầy dùng bữa". (32) Người nói với các ông: "Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". (33) Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?" (34) Đức Giêsu nói với các ông:
"Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. (35) Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! (36) Ai gặt thì lãnh tiền công
và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. (37) Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt" quả là đúng! (38) Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ".
(39) Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. (40) Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. (41) Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. (42) Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian".
Đức Giêsu ở Galilê
(43) Sau hai ngày, Đức Giêsu bỏ nơi đó đi Galilê. (44) Chính Người đã quả quyết: ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình. (45) Khi người đến Galilê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã chứng kiến tất cả những gì Người làm tại Giêrusalem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi dự lễ.
Dấu lạ thứ hai ở Cana: Đức Giêsu chữa con của một sĩ quan cận vệ của nhà vua
(46) Vậy Người trở lại Cana miền Galilê, là nơi Người đã làm cho nước hóa thành rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận vệ của nhà vua có đứa con trai đang bị bệnh tại Caphácnaum. (47) Khi nghe tin Đức Giêsu từ Giuđê đến Galilê, ông tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó sắp chết. (48) Đức Giêsu nói với ông: "Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu!" (49) Viên sĩ quan nói: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!" (50) Đức Giêsu bảo: "Ông cứ về đi, con ông sống". Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình, và ra về. (51) Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. (52) Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: "Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt". (53) Người cha nhận ra là vào đúng giờ đó, Đức Giêsu đã nói với mình: "Con ông sống", nên ông và cả nhà đều tin. (54) Đó là dấu lạ thứ hai Đức Giêsu đã làm, khi Người từ miền Giuđê đến miền Galilê.
2. LỄ THỨ HAI TẠI GIÊRUSALEM
Chương 5:
Đức Giêsu chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bếtdatha
(1) Sau đó, nhân dịp lễ của người Dothái, Đức Giêsu lên Giêrusalem. (2) Tại Giêrusalem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Hipri gọi là Bếtdatha. Hồ này có năm hành lang. (3) Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt ở đó, (chờ cho nước động, (4) vì thỉnh thoảng có thiên thần Chúa xuống hồ khuấy nước lên; khi nước khuấy lên, ai xuống trước, thì dù mắc bệnh gì đi nữa, cũng được khỏi). (5) Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. (6) Đức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: "Anh có muốn khỏi bệnh không?" (7) Bệnh nhân đáp: "Thưa Ngài, tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước khuấy lên. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi!" (8) Đức Giêsu bảo: "Anh hãy chỗi dậy, vác chõng và đi!" (9) Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và bước đi.
Hôm đó lại là ngày sabát. (10) Người Dothái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: "Hôm nay là ngày sabát, anh không được phép vác chõng!" (11) Nhưng anh đáp: "Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: 'Anh hãy vác chõng và đi!'" (12) Họ hỏi anh: "Ai là người đã bảo anh: 'Vác chõng và đi'?" (13) Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai. Quả thế, Đức Giêsu đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. (14) Sau đó, Đức Giêsu gặp người ấy trong Đền Thờ và nói: "Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!" (15) Anh ta đi nói với người Dothái: Đức Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh. (16) Do đó, người Dothái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày sabát. (17) Nhưng Đức Giêsu đáp lại: "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". (18) Bởi vậy, người Dothái lại càng tìm cách giết Đức Giêsu, vì không những Người phá luật sabát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Diễn từ về công việc của Chúa Con
(19) Đức Giêsu lên tiếng nói với họ rằng: "Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. (20) Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc. (21) Chúa Cha làm cho kẻ chết chỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tùy ý. (22) Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, (23) để ai nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con. (24) Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống. (25) Thật, tôi bảo thật các ông: giờ đã đến - và chính là lúc này đây giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ được sống. (26) Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, (27) lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người. (28) Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con (29) và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án. (30) Tôi không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi. (31) Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. (32) Có Đấng khác làm chứng về tôi và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. (33) Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gioan, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. (34) Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điêu này để các ông được cứu độ. (35) Ông Gioan là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. (36) Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi. (37) Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng cho tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người. (38) Các ông không giữ lời Người ở lại trong lòng, bởi vì chính các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến. (39) Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi. (40) Các ông không muốn đến cùng tôi để được sự sống. (41) Tôi không cần người đời tôn vinh. (42) Nhưng tôi biết: các ông không có lòng yêu mến Thiên Chúa. (43) Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận. (44) Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được? (45) Các ông đừng tưởng là tôi sẽ tố cáo các ông với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ông chính là Môsê, người mà các ông tin cậy. (46) Vì nếu các ông tin ông Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi. (47) Nhưng nếu các ông không tin các điều ông ấy viết, thì làm sao tin được lời tôi nói?"
3. LỄ VƯỢT QUA
DIỄN TỪ VỀ BÁNH TRƯỜNG SINH
Chương 6:
Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều
(1) Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria. (2) Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người làm cho những kẻ đau ốm. (3) Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. (4) Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Dothái.
(5) Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" (6) Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. (7) Ông Philípphê đáp: "Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút". (8) Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: (9) "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!" (10) Đức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. (11) Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý. (12) Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi". (13) Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. (14) Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" (15) Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ mà đến với các môn đệ
(16) Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, (17) rồi xuống thuyền đi về phía Caphácnaum bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giêsu chưa đến với các ông. (18) Biển động, vì gió thổi mạnh. (19) Khi đã chèo được chừng hai mươi lăm hoặc ba mươi chặng đường, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. (20) Nhưng Người bảo các ông: "Chính Thầy đây, đừng sợ!" (21) Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.
Diễn từ trong hội đường Caphácnaum
(22) Hôm sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó đã chỉ có một chiếc thuyền và Đức Giêsu lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông ra đi mà thôi. (23) Tuy nhiên, có những thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. (24) Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Caphácnaum tìm kiếm Người. (25) Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?" (26) Đức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. (27) Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh,,BR> là thứ lương thực Con Ngươi sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận".
(28) Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" (29) Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến". (30) Họ lại hỏi: "Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép:
Người đã cho họ ăn bánh từ trời".
(32) Đức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, (33) vì bánh Thiên Chúa ban
là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian".
(34) Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy". (35) Đức Giêsu bảo họ:
"Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (36) Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin. (37) Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, (38) vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. (39) Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. (40) Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con,
thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết".
(41) Người Dothái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống". (42) Họ nói: "Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?" Đức Giêsu bảo họ:
"Các ông đừng có xầm xì với nhau! (44) Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. (45) Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận
giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. (46) Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. (47) Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời.
(48) Tôi là bánh trường sinh. (49) Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. (50) Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. (51) Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây,
để cho thế gian được sống".
(52) Người Dothái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?" (53) Đức Giêsu nói với họ:
"Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. (54) Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, (55) vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. (56) Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.
(57) Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời".
(59) Đó là những điều Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Caphácnaum.
(60) Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (61) Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng , không chấp nhận được ư? (62) Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
(63) Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.
(64) Nhưng trong anh em có những kẻ không tin". Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. (65) Người nói tiếp: "Vì thế, Thầy bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho". (66) Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa.
Ông Phêrô tuyên xưng lòng tin
(67) Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (68) Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. (69) Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa". (70) Đức Giêsu đáp: "Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!" (71) Người muốn nói về Giuđa, con ông Simon Ítcariốt; thật thế, chính y, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Người.
4. LỄ LỀU
Chương 7:
Đức Giêsu lên Giêrusalem dự lễ và giảng dạy
(1) Sau đó, Đức Giêsu thường đi lại trong miền Galilê; thật vậy, Người không muốn đi lại trong miền Giuđê, vì người Dothái tìm giết Người.
(2) Lễ Lều của người Dothái gần tới, (3) anh em Đức Giêsu nói với Người: "Ông bỏ đây mà sang miền Giuđê đi, để cả môn đệ của ông cũng được nhìn thấy những việc ông làm, (4) vì không ai muốn được người ta biết đến mà lại hoạt động âm thầm. Nếu ông làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết". (5) Thật thế, anh em Người không tin vào Người. (6) Đức Giêsu nói với họ: "Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện. (7) Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm chứng rằng các việc nó làm thì xấu xa. (8) Các anh cứ lên dự lễ đi; còn tôi, tôi không lên dự lễ này, vì thời của tôi chưa chín muồi". (9) Nói thế rồi, Người ở lại Galilê. (10) Tuy nhiên, khi anh em Người đã lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật. (11) Người Dothái tìm kiếm Người trong dịp lễ và nói: "Ông ấy đâu rồi?" (12) Dân chúng bàn tán nhiều về Người. Kẻ thì bảo: "Đó là một người tốt". Kẻ thì nói: "Không, ông ta mê hoặc dân chúng". (13) Nhưng không ai dám công khai nói về Người, vì sợ người Dothái.
(14) Vào giữa kỳ lễ, Đức Giêsu lên Đền Thờ và giảng dạy. (15) Người Dothái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!" (16) Đức Giêsu trả lời:
"Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi. (17) Ai muốn làm theo ý của Người, thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự mình giảng dạy. (18) Ai tự mình giảng dạy, thì tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình, thì là người chân thật, và nơi người ấy không có gì là bất chính. (19) Ông Môsê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!
Sao các ông lại tìm cách giết tôi?" (20) Dân chúng đáp: "Ông bị quỷ ám rồi! Có ai tìm giết ông đâu?" (21) Đức Giêsu trả lời: "Tôi chỉ làm có một việc, mà tất cả các ông đều ngạc nhiên. (22) Ông Môsê đã truyền cho các ông làm phép cắt bì (thực ra, phép ấy đã có từ thời các tổ phụ, chứ không phải từ thời ông Môsê), và các ông làm phép cắt bì cả trong ngày sabát. (23) Vậy, nếu có người có chịu phép cắt bì trong ngày sabát để khỏi lỗi luật Môsê, thì sao các ông lại nổi giận với tôi, vì tôi đã chữa lành toàn thân một người trong ngày sabát? (24) Các ông đừng xét đoán theo bề ngoài nữa, nhưng hãy xét đoán cho công minh".
Dân chúng tranh luận về nguồn gốc của Đấng Kitô
(25) Bấy giờ có những người ở Giêrusalem nói: "Ông này không phải là người họ đang tìm giết đó sao? (26) Kìa, ông ta ăn nói công khai mà họ chẳng bảo gì cả. Phải chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Đấng Kitô? (27) Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả". (28) Lúc giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giêsu nói lớn tiếng rằng:
"Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật.
Các ông, các ông không biết Người. (29) Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người màđến và chính Người đã sai tôi".
(30) Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến.
Đức Giêsu loan báo Người sắp ra đi
(31) Trong dân chúng, có nhiều kẻ đã tin vào Người, họ nói: "Khi Đấng Kitô đến, liệu Người có làm nhiều dấu lạ hơn ông này chăng?" (32) Người Pharisêu nghe dân chúng bàn tán với nhau về Người như thế, nên họ và các thượng tế sai vệ binh đi bắt Người. (33) Vậy, Đức Giêsu bảo họ:
"Tôi còn ở với các ông ít lâu nữa thôi, rồi tôi đi đến cùng Đấng đã sai tôi. (34) Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi tôi ở, các ông không thể đến được".
(35) Người Dothái liền nói với nhau: "Ông ấy sắp đi đâu mà chúng ta không gặp được? Phải chăng ông sắp đi gặp kiều bào sống giữa người Hy Lạp, để giảng dạy cho người Hy Lạp? (36) Ông ấy muốn nói gì khi bảo:
'Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi tôi ở, các ông không thể đến được'?"
Lời hứa ban nước hằng sống
(37-38) Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Đức Giêsu đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng:
"Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!"
Như Kinh Thánh đã nói:
Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.
(39) Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giêsu chưa được tôn vinh.
Dân chúng lại tranh luận về nguồn gốc của Đấng Kitô
(40) Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: "Ông này thật là vị ngôn sứ". (41) Kẻ khác rằng: "Ông này là Đấng Kitô". Nhưng có kẻ lại nói: "Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao? (42) Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít và từ Bêlem, làng của vua Đavít sao?" (43) Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. (44) Một số trong bọn họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt.
(45) Các vệ binh, trở về với các thượng tế và người Pharisêu. Họ liền hỏi chúng: "Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây?" (46) Các vệ binh trả lời: "Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!" (47) Người Pharisêu liền nói với chúng: "Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? (48) trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pharisêu, đã có mặt ai tin vào tên ấy đâu? (49) Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa!" (50) Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Đức Giêsu; ông nói với họ: (51) "Lề Luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (52) Họ đáp: "Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả".
Người phụ nữ ngoại tình
(53) Sau đó, ai nấy trở về nhà mình.
Chương 8:
(1) Còn Đức Giêsu thì đến núi Ôliu.
(2) Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. (3) Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, (4) rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. (5) Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" (6) Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. (7) Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". (8) Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. (9) Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. (10) Người ngẩng lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" (11) Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả". Đức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"
Đức Giêsu, ánh sáng cho trần gian
(12) Đức Giêsu lại nói với người Dothái: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống".
Tranh luận về lời chứng của Đức Giêsu liên quan đến bản thân Người
(13) Người Pharisêu nói với Đức Giêsu: "Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của ông không thật!" (14) Người trả lời:
"Tôi có làm chứng cho chính mình đi nữa, thì lời chứng của tôi vẫn là chứng thật, bởi vì tôi biết tôi từ đâu tới và đi đâu. Còn các ông, các ông không biết tôi từ đâu tới và đi đâu. (15) Các ông xét đoán theo kiểu người phàm; phần tôi, tôi không xét đoán ai cả. (16) Mà nếu tôi có xét đoán, thì sự xét đoán của tôi vẫn đúng sự thật, vì không phải chỉ có mình tôi, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi. (17) Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. (18) Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi". (19) Họ liền hỏi người: "Cha ông ở đâu?" Đức Giêsu đáp: "Các ông không biết tôi, cũng chẳng biết Cha tôi. Nếu các ông biết tôi, thì hẳn cũng biết Cha tôi".
(20) Người đã nói những lời ấy, khi giảng dạy trong Đền Thờ, tại nơi đặt thùng tiền dâng cúng. Không có ai bắt Người, vì giờ của Người chưa đến.
(21) Đức Giêsu lại nói với họ: "Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và các ông sẽ mang tội mình mà chết. Nơi tôi đi, các ông không thể đến được".
(22) Người Dothái mới nói: "Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói" 'Nơi tôi đi, các ông không thể đến được'?" (23) Người bảo họ:
"Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. (24) Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi minh mà chết".
(25) Họ liền hỏi Người: "Ông là ai?" Đức Giêsu đáp:
"Hoàn toàn đúng như tôi vừa nói với các ông đó. (26) Tôi còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói".
(27) Họ không hiểu là Đức Giêsu nói với họ về Chúa Cha. (28) Người bảo họ:
"Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy. (29) Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người".
(30) Khi Đức Giêsu nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.
Đức Giêsu và ông Ápraham
(31) Vậy, Đức Giêsu nói với những người Dothái đã tin Người:
"Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; (32) các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông".
(33) Họ đáp: "Chúng tôi là dòng dõi ông Ápraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?" (34) Đức Giêsu trả lời:
"Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. (35) Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do. (37) Tôi biết các ông là dòng dõi ông Ápraham, nhưng các ông tìm cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông. (38) Phần tôi, tôi nói những điều đã thấy nơi Cha tôi; còn các ông, các ông làm những gì đã nghe cha các ông nói".
(39) Họ đáp: "Cha chúng tôi là ông Ápraham". Đức Giêsu nói:
"Giả như các ông là con cái ông Ápraham, hẳn các ông phải làm những việc ông Ápraham đã làm. (40) Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Ápraham đã không làm. (41) Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông làm".
Họ mới nói: "Chúng tôi đâu phải là con hoang. chúng tôi chỉ có một Cha: đó là Thiên Chúa!" (42) Đức Giêsu bảo họ:
"Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi. (43) Tại sao các ông không hiểu lối nói của tôi? Là vì các ông không thể nghe lời tôi nói. (44) Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối. (45) Còn tôi, chính vì tôi nói sự thật, nên các ông không tin tôi. (46) Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội? Nếu tôi nói sự thật, sao các ông lại không tin tôi? (47) Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa".
(48) Người Dothái đáp: "Chúng tôi bảo ông là người Samari và người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao? (49) Đức Giêsu trả lời:
"Tôi không bị quỷ ám. Nhưng tôi tôn kính Cha tôi; còn các ông, các ông lại làm nhục tôi. (50) Phần tôi, tôi không tìm vinh quang cho mình. Có Đấng tìm cho tôi và xét xử cho tôi. (51) Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết".
(52) Người Dothái liền nói: "Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Ápraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói:
"Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết".
(53) Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Ápraham sao? Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự coi mình là ai?" (54) Đức Giêsu đáp:
"Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả. Đấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông. (55) Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người. (56) Ông Ápraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ".
(57) "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Ápraham!" (58) Đức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Ápraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!"
(59) Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giêsu lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.
Chương 9:
Đức Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh
(1) Đi ngang qua, Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (2) Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (3) Đức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
(4) Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. (5) Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian".
(6) Nói xong, Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, (7) rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa (Silôác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
(8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?" (9) Có người nói: "Chính hắn đó!" Kẻ khác lại nói rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!" Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!" (10) Người ta liền hỏi anh: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?" (11) Anh ta trả lời: "Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: 'Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa'. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được". (12) Họ lại hỏi anh: "Ông ấy đâu?" Anh ta đáp: "Tôi không biết".
(13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. (14) Nhưng ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm mắt anh mở ra lại là ngày sabát. (15) Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy". (16) Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" Thế là họ đâm ra chia rẽ. (17) Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!"
(18) Người Dothái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. (19) Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?" (20) Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. (21) Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã lớn khôn rồi, tự nó nói về mình được." (22) Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Dothái. Thật vậy, người Dothái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. (23) Vì thế, cha mẹ anh mới nói: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".
(24) Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi". (25) Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: Trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!" (26) Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?" (27) Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?" (28) Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê. (29) Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông ấy ở đâu mà đến". (30) Anh đáp: "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt cho tôi! (31) Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. (32) Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. (33) Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì". (34) Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?" Rồi họ trục xuất anh.
(35) Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?" (36) Anh đáp: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?" (37) Đức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây". Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin". Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
(39) Đức Giêsu nói:
"Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!"
(40) Những người Pharisêu đang đứng ở đó với Đức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?" (41) Đức Giêsu bảo họ:
"Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'Chúng tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn!"
Chương 10:
Vị Mục Tử nhân lành
(1) "Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ". (6) Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều người nói với họ.
(7) Vậy, Đức Giêsu lại nói: "Thật, tôi bảo thật các ông:
Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không theo họ. (9) Tôi là cửa Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. (11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên. (12) Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, (13) vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành.
Tôi biết các chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, (15) như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên. (16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.
(19) Người Dothái lại chia rẽ nhau vì những lời đó. (20) Nhiều người trong nhóm họ nói: "Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?" (21) Kẻ khác bảo: "Người bị quỷ ám đâu có nói được như vậy! Quỷ có thể mở mắt cho người mù được sao?"
5. LỄ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ
Đức Giêsu xưng mình là Con Thiên Chúa
(22) Khi ấy, ở Giêrusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. (23) Đức Giêsu đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Salômon. (24) Người Dothái vây quanh Đức Giêsu và nói: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết". (25) Đức Giêsu đáp:
"Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. (26) Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. (27) Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. (28) Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. (29) Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. (30) Tôi và Chúa Cha là một".
(31) Người Dothái lại lấy đá để ném Đức Giêsu. (32) Người bảo họ: "Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi?" (33) người Dothái đáp: "Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa". (34) Đức Giêsu bảo họ:
"Trong Lề Luật các ông, đã chẳng có chép lời này sao: 'Ta đã phán: các người là những bậc thần thánh'? (35) Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị hủy bỏ, (36) thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian,
làm sao các ông lại bảo tôi: ‘Ông nói phạm thượng!' vì tôi đã nói: 'Tôi là Con Thiên Chúa'? (37) Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. (38) Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin vào các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha".
(39) Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ.
Đức Giêsu rút lui sang bên kia sông Giođan
(40) Đức Giêsu lại ra đi, sang bên kia sông Giođan, đến chỗ trước kia ông Gioan đã làm phép rửa, và Người ở lại đó. (41) Nhiều người đến gặp Đức Giêsu. Họ bảo nhau: "Ông Gioan đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng". (42) Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giêsu.
Chương 11:
Anh Ladarô sống lại
(1) Có một người bị đau nặng, tên là Ladarô, quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria. (2) Cô Maria là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh Ladarô, người bị đau nặng, là em của cô. (3) Hai cô cho người đến nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng". (4) Nghe vậy, Đức Giêsu bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh".
(5) Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.
(6) Tuy nhiên, sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. (7) Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: "Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê!" (8) Các môn đệ nói: "Thưa Thầy, mới đây người Dothái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?" (9) Đức Giêsu trả lời:
"Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. (10) Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!"
(11) Người nói những lời này, sau đó Người lại bảo họ: "Ladarô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây". (12) Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khỏe lại". (13) Đức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. (14) Bấy giờ Người mới nói rõ: "Ladarô đã chết. (15) Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy". (16) Ông Tôma, gọi là Điđymô, nói với các bạn đồng môn: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!"
(17) Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. (18) Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. (19) Nhiều người Dothái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời. (20) Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. (21) Cô Mácta nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy". (23) Đức Giêsu nói: "Em chị sẽ sống lại!" (24) Cô Mácta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". (25) Đức Giêsu liền phán:
"Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. (26) Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?"
(27) Cô Mácta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian".
(28) Nói xong, cô đi gọi em là Maria, và nói nhỏ: "Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!" (29) Nghe vậy, cô Maria vội vàng đứng lên và đến với Đức Giêsu. (30) Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mácta đã ra đón Người. (31) Những người Dothái đang ở trong nhà với cô Maria để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
(32) Khi đến gần Đức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết". (33) Thấy cô khóc, và những người Dothái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. (34) Người hỏi: "Các người để xác anh ấy ở đâu?" Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem". (35) Đức Giêsu liền khóc. (36) Người Dothái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!" (37) Có vài người trong nhóm họ nói: "Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết được ư?" (38) Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. (39) Đức Giêsu nói: "Đem phiến đá này đi". Cô Mácta là chị người chết liền nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày". (40) Đức Giêsu bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" (41) Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói:
"Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. (42) Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con".
(43) Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!" (44) Người chết liền bước ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn liệm. Đức Giêsu bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi".
Các thủ lãnh Dothái quyết định giết Đức Giêsu
(45) trong số những người Dothái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có kẻ đã tin vào Người. (46) Nhưng lại có những người đi gặp nhóm Pharisêu và kể cho họ những gì Đức Giêsu đã làm. (47) Vậy các thượng tế và các người Pharisêu triệu tập Thượng hội Đồng và nói: "Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. (48) Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá hủy cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta". (49) Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Caipha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: "Các ông không hiểu gì cả, (50) các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt". (51) Điều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, (52) và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. (53) Từ ngày đó, họ quyết định giết Đức Giêsu. (54) Vậy Đức Giêsu không đi lại công khai giữa người Dothái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Épraim. Người ở lại đó với các môn đệ.
6. SỨ VỤ CÔNG KHAI CỦA ĐỨC GIÊSU KẾT THÚC
Lễ Vượt Qua gần đến
(55) Lễ Vuợt Qua của người Dothái đã gần. Từ miền quê, nhiều người lên Giêrusalem trước lễ Vượt Qua để thanh tẩy mình. (56) Họ tìm Đức Giêsu và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: "Các ông có nghĩ rằng ông ấy sẽ không lên dự lễ chăng?" (57) Còn các thượng tế và người Pharisêu thì ra lệnh: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.
Chương 12:
Xức dầu thơm tại Bêtania
(1) Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đến làng Bêtania, nơi anh Ladarô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. (2) Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giêsu; cô Mácta lo hầu bàn, còn anh Ladarô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. (3) Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm. (4) Một trong các môn đệ của Đức Giêsu la Giuđa Ítcariốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: (5) "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo?" (6) Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung. (7) Đức Giêsu nói: "Hãy để cô ấy yên hầu cô ấy giữ lại dầu thơm này cho ngày mai táng Thầy. (8) Thật vậy, người nghèo thì anh em luôn có bên cạnh; còn Thầy, anh em không có mãi đâu".
(9) Một đám đông người Dothái biết Đức Giêsu đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Đức Giêsu, nhưng còn để nhìn thấy anh Ladarô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết. (10) các thượng tế mới quyết định giết cả anh Ladarô nữa, (11) vì tại anh mà nhiều người Dothái đã bỏ họ và tin vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu vào Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia
(12) Hôm sau, dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giêsu tới Giêrusalem, (13) họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò:
Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ítraen!
(14) Đức Giêsu gặp một con lừa nhỏ, liền cỡi lên như có lời chép:
(15) Hỡi thiếu nữ Xion, đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con.
(16) Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy. Nhưng sau khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép những điều đó về Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy. (17) Vậy, đám đông dân chúng làm chứng cho Đức Giêsu, họ là những người đã có mặt, khi Đức Giêsu gọi anh Ladarô ra khỏi mồ và làm cho anh chỗi dậy từ cõi chết. (18) Sỡ dĩ dân chúng đi đón Người, là vì họ nghe biết Người đã làm dấu lạ đó. (19) Bấy giờ người Pharisêu bảo nhau: "Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!"
Đức Giêsu loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
(20) Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. (21) Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu". (22) Ông Philipphê đi nói với ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philipphê đến thưa với Đức Giêsu. (23) Đức Giêsu trả lời:
"Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy". (27) "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha". Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Ta Ta sẽ còn tôn vinh nữa!"
(29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: " Đó là tiếng sấm!" Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!" (30) Đức Giêsu đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người.
(31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi".
(33) Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
(34) Vậy, dân chúng thưa Người: "Chúng tôi đã học biết trong sách Luật rằng: Đấng Kitô phải trường tồn mãi mãi. Thế sao ông lại nói: 'Con Người phải được giương cao'? Con Người đó là ai?" (35) Đức Giêsu bảo họ:
"Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các ông còn có ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết mình đi đâu. (36) Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng".
Sau khi nói thế, Đức Giêsu rời nơi đó và lánh đi không cho họ thấy.
Kết luận: Người Do thái cứng lòng không chịu tin
(37) Người đã làm ngần ấy dấu lạ trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin vào Người. (38) Như vậy là ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia:
Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời chúng tôi rao giảng? Và quyền lực của Đức Chúa đã được tỏ cho ai?
(39) Sở dĩ họ không thể tin là vì ngôn sứ Isaia còn nói:
(40) Thiên Chúa đã làm cho mắt chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy và lòng chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành!
(41) Ngôn sứ Isaia nói những lời đó, vì đã thấy vinh quang của Đức Giêsu, và ông đã nói về Người.
(42) Tuy nhiên, ngay cả trong giới lãnh đạo Dothái cũng có nhiều người đã tin vào Đức Giêsu. Nhưng, vì sợ nhóm Pharisêu, họ không dám xưng ra, kẻo bị khai trừ khỏi hội đường. (43) Thật thế, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên Chúa. (44) Đức Giêsu lớn tiếng nói rằng:
"Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; (45) ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. (46) Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. (47) Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. (48) Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. (49) Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. (50) Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi".
III. GIỜ CỦA ĐỨC GIÊSU
LỄ VƯỠT QUA CỦA CHIÊN THIÊN CHÚA
1. BỮA ĂN CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC GIÊSU VÀ CÁC MÔN ĐỆ
Chương 13:
Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ
(1) Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.
(2) Trong bữa ăn tối, ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simon Ítcariốt, ý định nộp Đức Giêsu. (3) Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, (4) nên bấy giờ Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. (5) Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
(6) Vậy, Người đến chỗ ông Simon Phêrô, ông liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?" (7) Đức Giêsu trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu". (8) Ông Phêrô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Đức Giêsu đáp: "Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy". (9) Ông Simon Phêrô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa". (10) Đức Giêsu bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!" (11) Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch".
(12) Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? (13) Anh em gọi Thầy là 'Thầy', là 'Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. (14) Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. (15) Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.
(16) Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn người sai đi.
(17) Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì phúc cho anh em! (18) Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây:
Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.
(19) Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. (20) Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy".
Đức Giêsu loan báo Giuđa sẽ phản bội
(21) Đức Giêsu nói thế rồi, tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố:
"Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy".
(22) Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. (23) Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. (24) Ông Simon Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo: "Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?" (25) Ông này liền nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu và hỏi: "Lạy Thầy, ai vậy?" (26) Đức Giêsu trả lời: "Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy". Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Simon Ítcariốt. (27) Y vừa ăn xong miếng bánh, Xatan liền nhập vào y. Đức Giêsu bảo y: "Anh làm gì thì làm mau đi!" (28) Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Người nói với y như thế. (29) Vì Giuđa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giêsu nói với y: "Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ", hoặc bảo y bố thí cho người nghèo. (30) Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối.
Những lời cáo biệt
(31) Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói:
"Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người, (32) Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (33) Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Dothái: 'Nơi tôi đi, các người không thể đến được', bấy giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. (34) Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (35) Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau".
(36) Ông Simon Phêrô nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?" Đức Giêsu trả lời: "Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo". (37) Ông Phêrô thưa: "Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì Thầy!" (38) Đức Giêsu đáp: "Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.
Chương 14:
(1) Lòng anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. (2) Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. (3) Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. (4) Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi".
(5) Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?"
Đức Giêsu đáp:
"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. (7) Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người".
(8) Ông Philípphê nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện".
(9) Đức Giêsu trả lời:
"Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha'? (10) Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (11) Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không, thì hãy tin vì chính các việc kia vậy. (12) Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. (13) Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. (14) Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó. (15) Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. (17) Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. (18) Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. (19) Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. (20) Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. (21) Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy".
(22) Ông Giuđa, không phải Giuđa Ítcariốt, nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?" (23) Đức Giêsu đáp:
"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. (24) Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy. (25) Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em, (26) Nhưng khi Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. (27) Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. (28) Anh em đã nghe Thầy bảo: 'Thầy ra đi và đến cùng anh em'. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. (29) Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự ấy xảy ra. (30) Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa, bởi vì thủ lãnh thế gian đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy. (31) Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy. Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!"
Chương 15:
Cây nho thật
(1) "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. (2) Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. (3) Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. (4) Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. (5) Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. (6) Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. (7) Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin. anh em sẽ được như ý. (8) Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy. (9) Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. (10) Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. (11) các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. (12) Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (13) Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu. (14) Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết. (16) Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. (17) Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
Các môn đệ và thế gian
(18) Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. (19) Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. (20) Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. (21) Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy. (22) Giả như Thầy không đến và không nói với họ, họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ không thể chữa tội được. (23) Ai ghét Thầy, thì cũng ghét Cha của Thầy. (24) Giả như Thầy không làm giữa họ những việc không một ai khác đã làm, họ đã không có tội. Nhưng nay họ thấy rồi mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy. (25) Như thế là ứng nghiệm lời đã viết trong Sách Luật của họ: Chúng ghét con vô cớ (26) Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. (27) Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.
Chương 16:
(1) Thầy đã nói với anh em điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã. (2) Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ mà kẻ nào giết anh em cũng tưởng đó là phụng thờ Thiên Chúa. (3) Họ sẽ làm như thế, bởi họ không biết Chúa Cha, cũng chẳng biết Thầy. (4) Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ của họ, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi,
Đấng Bảo Trợ sẽ đến
"Những điều ấy Thầy đã không nói với anh em ngay từ đầu, vì lúc ấy Thầy còn ở với anh em. (5) Bây giờ Thầy đến cùng Đấng đã sai Thầy, và không ai trong anh em hỏi: Thầy đi đâu? (6) Nhưng vì Thầy nói ra các điều ấy, nên lòng anh em tràn ngập nỗi ưu phiền. (7) Song, Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em; Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em, nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em. (8) Và Ngài đến, Ngài sẽ bắt lỗi thế gian: Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính, và việc xét xử. (9) Về tội: vì họ không tin vào Ta. (10) Về sự công chính: vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa. (11) Về việc xét xử: vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử rồi. (12) Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. (13) Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn, Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng nghe gì, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ đến. (14) Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. (15) Mọi sự Cha có, đều là của Thầy. Vì thế Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em".
Đức Giêsu loan báo Người sẽ mau trở lại
(16) "Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy"
(17) Bấy giờù vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giêsu hỏi nhau: "Người muốn nói gì khi bảo chúng ta: 'Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy' và 'Thầy đến cùng Chúa Cha' ?" (18) Vậy các ông nói: "Ít lâu nữa' nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu Người nói gì!" (19) Đức Giêsu biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông:
"Anh em bàn luận với nhau về lời Thầy nói: 'Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy'. (20) Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. (21) Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. (22) Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được. (23) Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa. Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. (24) Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn. (25) Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói những điều ấy với anh em. Sẽ đến giờ Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha, không còn úp mở. (26) Ngày ấy, anh em sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không nói với anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. (27) Thật vậy, chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến. (28) Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha."
(29) Các môn đệ Người thưa: "Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. (30) Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến". (31) Đức Giêsu đáp:
"Bây giờ anh em tin à? (32) Này đến giờ---và giờ ấy đã đến rồi--- anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. (33) Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian".
Chương 17:
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu
(1) Nói thế xong, Đức Giêsu ngước mắt lên trời và nói rằng:
"Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha, (2) theo quyền năng Cha đã ban cho Người trên mọi phàm nhân để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. (3) Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô. (4) Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. (5) Vậy lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. (6) Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. (7) Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con. (9) Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. (10) Tất cả những gì của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con; và con được tôn vinh nơi họ. (11) Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha. Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta. (12) Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh. (13) Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. (14) Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. (15) Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. (16) Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. (17) Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. (18) Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. (19) Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến. (20) Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, (21) để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. (22) Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: (23) Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con. (24) Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. (25) Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. (26) Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa".
2. CUỘC THƯƠNG KHÓ
Chương 18:
Đức Giêsu bị bắt giữ
(1) Sau khi nói những lời đó, Đức Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kítrôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với môn đệ đi vào. (2) Giuđa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. (3) Vậy, Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. (4) Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: "Các anh tìm ai?" (5) Họ đáp: "Tìm ông Giêsu Nadarét". Người nói: "Chính tôi đây". Giuđa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. (6) Khi Người vừa nói: "Chính tôi đây", thì họ lùi lại và ngã xuống đất. (7) Người lại hỏi một lần nữa: "Các anh tìm ai?" Họ đáp: "Tìm ông Giêsu Nadarét". (8) Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi". (9) Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói:
"Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai".
(10) Ông Simon Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Mankhô. (11) Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?"
Đức Giêsu bị điệu ra trước các ông Khanna và Caipha
Phêrô chối Thầy
(12) Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Dothái bắt Đức Giêsu và trói Người lại. (13) Trước tiên, họ điệu Đức Giêsu đến ông Khanna là nhạc phụ ông Caipha. Ông Caipha làm thượng tế năm đó. (14) Chính ông này đã đề nghị với người Dothái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.
(15) Ông Simon Phêrô và một môn đệ khác đi theo Đức Giêsu. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giêsu vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. (16) Còn ông Phêrô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. (17) Người tớ gái giữ cổng nói với Phêrô: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?" Ông liền đáp: "Đâu phải". (18) Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phêrô cũng đứng sưởi với họ. (19) Vị thượng tế tra hỏi Đức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Người. (20) Đức Giêsu trả lời: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. (21) Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì". (22) Đức Giêsu vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói: "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?" (23) Đức Giêsu đáp:
"Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chổ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?" (24) Ông Khanna cho giải Người đến thượng tế Caipha, Người vẫn bị trói.
(25) Còn ông Simon Phêrô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?" Ông liền chối: "Đâu phải". (26) Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phêrô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: "Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?" (27) Một lần nữa ông Phêrô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
Đức Giêsu bị điệu ra trước tổng trấn Philatô
(28) Vậy, người Dothái điệu Đức Giêsu từ nhà ông Caipha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. (29) Vì thế, tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi: "Các người tố cáo người này về tội gì?" (30) Họ đáp: "Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan". (31) Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người". Người Dothái đáp: "Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả". (32) Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
(33) Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Dothái không?" (34) Đức Giêsu đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?" (35) Ông Philatô trả lời: "Tôi là người Dothái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?" (36) Đức Giêsu trả lời:
"Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này".
Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?" Đức Giêsu đáp:
"Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
(38) Ông Philatô nói với Người: "Sự thật là gì?" Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Dothái và bảo họ: "Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. (39) Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha cho một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Dothái cho các người không?" Họ lại la lên rằng: "Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!" Mà Baraba là một tên cướp.
Chương 19:
(1) Bấy giờ ông Philatô truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Người. (2) Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. (3) Họ đến gần và nói: "Kính chào Vua dân Dothái!", rồi vả vào mặt Người.
(4) Ông Philatô lại ra ngoài và nói với người Dothái: "Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy". (5) Vậy, Đức Giêsu bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Philatô nói với họ: "Đây là người!" (6) Khi vừa thấy Đức Giêsu, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: "Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy". (7) Người Dothái đáp lại: "Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa".
(8) Nghe lời đó, ông Philatô càng sợ hơn nữa. (9) Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giêsu: "Ông từ đâu mà đến?" Nhưng Đức Giêsu không trả lời. (10) Ông Philatô mới nói với Người: "Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?" (11) Đức Giêsu đáp lại: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn".
Đức Giêsu bị kết án tử hình
(12) Từ đó, ông Philatô tìm cách tha Người. Nhưng dân Dothái kêu lên rằng: "Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xêda. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xêda". (13) Khi nghe thấy thế, ông Philatô truyền dẫn Đức Giêsu ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên tòa, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Hípri là Gápbatha. (14) Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Philatô nói với người Dothái: "Đây là vua các người!" (15) Họ liền la lớn: "Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô nói với họ: "Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?" Các thượng tế đáp: "Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xêda". (16) Bấy giờ ông Philatô trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
Đức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá
Vậy họ điệu Đức Giêsu đi. (17) Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hípri là Gôngôtha; (18) tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giêsu thì ở giữa. (19) Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: "Giêsu Nadarét, Vua dân Dothái". (20) trong dân Dothái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giêsu bị đóng đinh là một địa điểm ỏ gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng Hípri, Latinh và Hylạp. (21) Các thượng tế của người Dothái nói với Philatô: "Xin ngài đừng viết: "Vua dân Dothái" nhưng viết: "Tên này đã nói: Ta là Vua dân Dothái". "(22) Ông Philatô trả lời: "Ta viết sao, cứ để vậy!"
Lính tráng chia nhau áo xống của Đức Giêsu
(23) Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. (24) Vậy họ nói với nhau: "Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được". Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh:
Áo xống tôi, chúng đem chia chác, còn áo dài, cũng bắt thăm luôn.
Đó là những điều lính tráng đã làm.
Đức Giêsu và thân mẫu của Người
(25) Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. (26) Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà". (27) Rồi Người nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh". Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
Đức Giêsu chết trên thập giá
(28) Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói:
"Tôi khát!"
(29) Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. (30) Nhắp xong, Đức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất!" Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Đức Giêsu bị lưỡi đòng đâm thâu
(31) Hôm đó là ngày áp lễ, người Dothái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sabát, mà ngày sabát đó lại là ngày lễ lớn. Nên họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. (32) Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. (33) Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. (34) Nhưng một người lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. (35) Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. (36) Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh:
Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.
(37) Lại có lời Kinh Thánh khác:
Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
Đức Giêsu được mai táng
(38) Sau đó, ông Giôxép, người Arimathê, xin ông Philatô cho phép hạ thi hài Đức Giêsu xuống. Ông Giôxép này là một môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Dothái. Ông Philatô chấp thuận. Vậy, ông Giôxép đến hạ thi hài Người xuống. (39) Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. (40) Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà cuốn, theo tục lệ chôn cất của người Dothái. (41) Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. (42) Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Dothái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.
3. NGÀY PHỤC SINH
Chương 20:
Ngôi mộ trống
(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?.
(3) Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chổi dậy từ cõi chết. (10) Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.
Đức Giêsu hiện ra với bà Maria Mácđala
(11) Bà Maria đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, (12) thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. (13) Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc?" Bà thưa: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!" (14) Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. (15) Đức Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?" Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về". (16) Đức Giêsu gọi bà: "Maria!" Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: "Rápbuni!" (nghĩa là 'lạy Thầy'). (17) Đức Giêsu bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: 'Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em'". (18) Bà Maria Mácđala đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.
Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an!" (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông:
"Chúc anh em được bình an! như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em".
(22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo:
"Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ".
(24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. (25) các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tôma đáp: "Nêu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin". (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an" (27) Rồi Người bảo Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin". (28) Ông Tôma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (29) Đức Giêsu bảo:
"Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
4. KẾT KUẬN THỨ NHẤT
(30) Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
IV. ĐOẠN CUỐI
Chương 21:
Đức Giêsu hiện ra ở bờ Biển Hồ Tibêria
(1) Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. (2) Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. (3) Ông Simon nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh". Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
(4) Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. (5) Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư?" Các ông trả lời: "Thưa không". (6) Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá". Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. (7) Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với Phêrô: "Chúa đó!" Vừa nghe nói "Chúa đó!", ông Simon Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. (8) Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
(9) Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. (10) Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây!" (11) Ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. (12) Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn!" Không ai trong các môn đệ dám hỏi "ông là ai?", vì các ông biết rằng đó là Chúa. (13) Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. (14) Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi chỗi dậy từ cõi chết.
(15) Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Đức Giêsu nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy". (16) Người lại hỏi: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy". (17) Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?" Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy". Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy.
(18) Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già,
anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn".
(19) Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy".
(20) Ông Phêrô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đi theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu trong bữa ăn tối và hỏi: "Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?" (21) Vậy khi thấy người đó, ông Phêrô nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, còn anh này thì sao?" (22) Đức Giêsu đáp: "Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy". (23) Do đó mới có tiếng đồn giữa anh em là môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Đức Giêsu đã không nói với Phêrô là: "Anh ấy sẽ không chết", mà chỉ nói: "Giả như Thây muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?"
Kết luận:
(24) Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.
(25) Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.
=====//////=====

Lm Giuse Phạm Thanh Minh