GIÁO LÝ KINH THÁNH.
DẪN NHẬP
TIN MỪNG THEO THÁNH GIOAN
CẤU TRÚC
Có nhiều kiểu phân chia sách Tin Mừng thứ IV. Mỗi kiểu phân chia dựa
trên vài điểm làm nền tảng. Khó có thể hướng về một kiểu nhất định, duy nhất.
Vì thế, xin tạm đề nghị kiểu phân chia sau đây tương đối hợp lý hơn cả.
Kiểu phân chia này dựa vào các lễ phụng vụ Do thái (3 lễ vượt qua: 2,13;
6,4; 11,55 - một lễ không được xác định: 5,1 - lễ lều: 7,2 - lễ cung hiến đền
thờ: 10,22) và cách phân chia cuộc đời Đức Giêsu thành những giai đoạn rõ rệt
(tuần lễ): (tuần lễ khai mạc: 1,19-2,11 - tuần lễ lều: 7,2.14.37 - tuần lễ
thương khó: 12,1.12; 19,31.42, nằm giữa việc mai táng thực thụ: 19,38tt). Với
những yếu tố vừa kể, có thể phân chia sách Tin Mừng thứ IV như sau:
1. Loan báo nhiệm cục mới (1,19-12,50)
2. Lễ thứ II tại Giêrusalem (5,1-47)
3. Lễ vượt qua. Diễn từ về bánh trường sinh (6,1-7,1)
4. Lễ lều (7,1-10,21)
5. Lễ cung hiến đền thờ (10,22-11,54)
6. Sứ vụ công khai của Đức Giêsu kết thúc (11,55-12,50)
1. Bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ (13,1-17,26)
2. Cuộc Thương Khó (18,1-19,42)
3. Ngày Phục Sinh (20,1-29)
4. Kết luận thứ nhất (20,30-31)
TIN MỪNG VÀ SÁCH TIN MỪNG THEO THÁNH GIOAN
Ga 20,31 làm nổi bật mục tiêu của sách Tin Mừng thứ IV: "Những điều
đã được chép ở đây (trong sách này) là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người". Đó
là sách Tin Mừng đem tin vui cho những kẻ tin vào Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa: ai tin vào Người thì được sự sống nhờ danh Người. Như các sách Tin
Mừng Nhất Lãm, Gioan trình bày những nét chính yếu của lời rao giảng tiên khởi
(Kerygma): ông Gioan Tẩy Giả làm chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia nhờ Thánh
Thần ngự xuống (1,31-34); Đức Giêsu dùng việc làm và lời nói nhằm mặc khải
Thiên Chúa và hoạt động cứu độ của Người (1,35-12,50); trình thuật về cuộc
Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giêsu cũng như những cuộc hiện ra của Người
(13,1-20,20); sứ mạng trao cho các Tông Đồ (20,21). Nhưng sách Tin Mừng thứ IV
có nhiều điểm khác biệt với các sách Tin Mừng Nhất Lãm: cấu trúc, niên đại,
cách trình bày các phép lạ và lời nói của Đức Giêsu, cách tường thuật cùng
những sự kiện như các sách Tin Mừng Nhất Lãm... Sự khác biệt thiết yếu vẫn là
cái nhìn về mầu nhiệm Đức Kitô. Đối với sách Tin Mừng thứ IV, Đức Kitô không
chỉ là Đấng Mêsia đến trần gian nhằm làm ứng nghiệm những lời tiên báo của các
ngôn sứ Cựu Ước và thiết lập Nước Trời (Mátthêu); Người cũng không chỉ là Đấng
Mêsia, Con Thiên Chúa (Máccô), hoặc là Vị Cứu Chúa đến công bố sứ điệp diễn tả
lòng khoan dung của Người đối với nhân loại (Luca). Theo tác giả của Gioan, Đức
Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia mang đến cho thế gian đức tin và
sự sống đời đời (20,31).
TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH SÁCH TIN MỪNG IV
Nói chung, Gioan cho độc giả cảm tưởng đó là cuốn sách có sự duy nhất.
Nhưng khi đọc kỹ, độc giả sẽ nhận thấy những dấu vết của một tình trạng thiếu
trật tự nào đó ít nhất bên ngoài: cuốn sách không tiến triển đều đặn; độc giả
gặp những đoạn như nằm ngoài mạch văn:
* Ga 3,22-30 như làm đứt đoạn diễn từ của Đức Giêsu nói với ông
Nicôđêmô. Đặt 3,31 ngay sau 3,21 thì hợp lý hơn.
* Đáng lẽ ch.6 phải nằm giữa ch. 4 và ch. 5. Như thế lộ trình của Đức
Giêsu sẽ như sau: từ miền Giuđê, Người đến miền Galilê (4,54), sang bên kia
biển hồ Galilê (6,1), rồi Người lên Giêrusalem (5,1) và trở về Galilê (7,1).
* Phải hơn Ga 10,19-21 nằm ngay sau 9,41, vì c. 20,21 có cùng chung một
chủ đề với ch. 9. Ga 14,31 phải là câu kết của bài diễn từ cáo biệt. Như thế,
các ch. 15 và 16 đáng lẽ phải ở nơi nào đó trước câu này.
* Ga 20,30-31 là đoạn kết của Gioan. Rõ ràng, Ga 21 là một phụ trương.
* Ga 7,53-8,11 không nằm trong mạch văn trước và sau. Theo văn thể và
cách hành văn, đoạn này rất gần truyền thống Nhất Lãm, cách riêng Luca.
* Ga 5,3b-4: nhiều bản chép tay quan trọng bỏ những câu này. Ngày nay,
các học giả thường công nhận: đó là lời chú nhằm cắt nghĩa c. 7 nói đến nước
khuấy lên.
* Ga 12,44-50 nằm ở ngoài mạch văn.
Những điều dị thường kể ở trên xuất phát từ cách thức Gioan đã được soạn
thảo và xuất bản: đó là tình trạng các vật liệu được dùng tăng dần theo thời
gian, qua những lần xuất bản kế tiếp nhau. Công việc soạn thảo và xuất bản ấy
đòi phải sửa chữa, thêm bớt... Trong tiến trình hình thành của Gioan, vài học
giả nhận ra năm giai đoạn :
- Giai đoạn I: Trước hết, có một tổng thể các vật liệu thuộc truyền khẩu
liên quan đến lời nói, việc làm của Đức Giêsu. Những vật liệu đó giống như các
vật liệu đã cấu thành các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng phát xuất từ một nguồn
khác.
- Giai đoạn II: Trong một giai đoạn có lẽ đã kéo dài qua nhiều thập
niên, những vật liệu ấy đã được tuyển chọn, suy đi nghĩ lại và uốn nắn thành
những trình thuật riêng biệt và những diễn từ trong khi rao giảng và giáo huấn.
Vào cuối giai đoạn thứ hai này, người ta bắt đầu ghi lại những vật liệu dùng
trong công việc rao giảng và giáo huấn. Kiểu hành văn trong đoạn 7,53-8,11 hoặc
ch. 21 chẳng hạn... không giống kiểu hành văn của những đoạn khác trong Gioan.
Đó là dấu vết của nhiều tác giả đã góp phần soạn thảo. Nhưng nói cách chung,
phần lớn tác phẩm phát xuất từ một nguồn chính. Chắc nguồn chính đó phải là một
môn phái thần học quy tụ chung quanh một vị tôn sư. Vị tôn sư này đóng vai trò
chính yếu trong tiến trình hình thành của tác phẩm.
- Giai đoạn III: Những vật liệu ghi lại đó được sử dụng để cấu thành một
tác phẩm. Đó là sách Tin Mừng trong lần xuất bản đầu tiên. Chắc vị tôn sư đã có
sáng kiến thực hiện tác phẩm này. Và theo vài học giả, vị tôn sư đó chính là
tác giả sách Tin Mừng. Tác phẩm này không gom lại tất cả các vật liệu do truyền
thống Gioan cung cấp.
- Giai đoạn IV: Rồi tác giả sách Tin Mừng cho xuất bản tác phẩm lần thứ
hai. Có những đoạn hoặc phần mới lạ được ghép vào nhằm đáp ứng những nhu cầu
mới hoặc giải đáp những vấn nạn do vài nhóm nêu lên: các môn đệ của ông Gioan
Tẩy Giả, những tín hữu gốc Dothái...
- Giai đoạn V: Sau hết, một (hoặc các) nhân vật gọi là "soạn
giả", đồ đệ hay bạn thân của tác giả, đảm nhận công việc xuất bản tác phẩm
lần thứ ba. Lần xuất bản này là thành quả của công việc đem vào tác phẩm thuộc
giai đoạn IV những vật liệu thuộc truyền thống Gioan chưa nằm trong tác phẩm.
TÁC GIẢ CHÍNH
Như thế, sách Tin Mừng IV không chỉ có một tác giả duy nhất. Rất nhiều
người đã đóng góp vào truyền thống Gioan: truyền khẩu, các đơn vị văn chương...
Ngoài ra, còn có tác giả chính và soạn giả hoặc những soạn giả...
Nhưng tác giả chính là ai? Theo truyền thống, tông đồ Gioan, con ông
Dêbêđê và em ông Giacôbê, đã viết sách Tin Mừng thứ IV. Cuối thế kỷ thứ II, vào
năm 180, thánh Irênê (trong cuốn Adversus Haereses III,1,1) Quy điển của
Muratori (165-185), ông Cơlêmentê thành Alêxanria (qua đời vào 211-216) đã quả
quyết điều đó. Sách Tin Mừng thứ IV không ghi tên tác giả. Ga 21,20 nói đến
"người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Theo 21,24, "chính môn đệ
này làm chứng về những điều đó (= những sự kiện kể trong Gioan) và đã viết
ra".
Người môn đệ ấy là ai? Trong bữa Tiệc Ly, người môn đệ ấy để đầu tựa vào
lòng Đức Giêsu (Ga 13,23). Ông đứng gần thập giá, khi Đức Giêsu giao phó thân
mẫu cho mình (Ga 19,26). Sáng sớm Chúa Nhật Phục Sinh, ông và ông Phêrô chạy ra
mộ (Ga 20,2.3.4.8). Ở trên bãi biển hồ Tibêria, ông nhận ra Đức Giêsu trước các
môn đệ khác (Ga 21,7); ông là đối tượng của cuộc nói chuyện giữa Đức Giêsu và
ông Phêrô (Ga 21,20-23).
Chắc chắn "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" phải là một Tông
Đồ, vì dựa vào các sách Tin Mừng Nhất Lãm chúng ta thấy: chỉ có các Tông Đồ mới
có mặt trong bữa Tiệc Ly. Theo cách diễn tả của Gioan, người môn đệ đó thuộc
nhóm ba môn đệ thân tín của Đức Giêsu. Môn đệ đó không phải là ông Phêrô, vì
ông Phêrô ở gần bên ông ấy mấy lần (Ga 13,23-24; 20,2-4.6.8-10; 21,20-23). Môn
đệ đó cũng không phải là ông Giacôbê đã chịu tử đạo vào năm 44 (x. Cv 12,2),
còn môn đệ đó thì lại sống khá lâu theo Ga 21,20-23. Như thế, có lẽ phải kết
luận rằng môn đệ đó chính là Tông đồ Gioan.
NƠI VÀ NĂM SOẠN THẢO
Sách Tin Mừng thứ IV đã được soạn thảo tại miền Tiểu Á theo lời chứng
của lời tựa chống Máckiôn, của thánh Giêrônimô và Êpiphan. Thánh Irênê nói rõ:
tại Êphêxô. Nói chung, các học giả công nhận ý kiến này. Nhưng cũng có vài nhân
vật như thánh Eprem, ông Tatianô... lại chủ trương: Antiôkhia, xứ Xyria, mới là
nơi soạn thảo. Dĩ nhiên, thánh Gioan đã rao giảng tại Antiôkhia. Nhưng theo
truyền thống, ngài đã qua giai đoạn sau cùng trong cuộc đời, một giai đoạn khá
dài, tại Êphêxô. Có lẽ vì lý do đó, chung chung người ta đã chọn Êphêxô hơn là
Antiôkhia. Bởi vì sách Tin Mừng thứ IV không phải chỉ có một tác giả duy nhất,
nên chắc phải phân biệt như sau: 1) những phần của chính thánh Gioan đã được
soạn thảo tại Êphêxô; 2) còn về các phần khác do (các) soạn giả và các môn đệ
của thánh Gioan soạn thảo, thì khó mà xác định được là ở Êphêxô hoặc ở nơi
khác.
Về năm soạn thảo, chúng ta chỉ có thể đưa ra một ý kiến có khả năng
đúng. Sách Tin Mừng thứ IV được người ta cho biết đến từ tiền bán thế kỷ thứ
II, vì đã được trích dẫn hay đã gây ảnh hưởng: thánh Giúttinô (Apologie 61,4)
(vào năm 150); Hermas (Pasteur) (vào năm 140); thánh Pôlycáp (Thư gửi các tín
hữu Philípphê) (vào năm 110); thánh Inhaxiô Antiôkhia (các thư) (vào năm 110);
tác phẩm Odes de Salomon (tiền bán thế kỷ thứ II); sách viết trên giấy cói
Rylands 457... Theo thánh Irênê và ông Cơlêmentê Alêxanria, có lẽ thánh Gioan
đã sống đến thời hoàng đế Tragianô (98-117). Như thế, nếu trừ đi thời gian cần
thiết để phổ biến sách Tin Mừng, chúng ta có thể nghĩ rằng một số phần thuộc
sách Tin Mừng thứ IV đã được soạn thảo vào những năm cuối của thế kỷ thứ I.
ĐẠO LÝ
Mỗi tác giả sách Tin Mừng có một cái nhìn độc đáo về mầu nhiệm Đức Giêsu
và sứ mạng của Người đối với nhân loại. Theo Gioan, Đức Giêsu là Ngôi Lời tiên
hữu trong Thiên Chúa (1,1.2) trở nên người phàm (1,14), vì được Chúa Cha sai
xuống thế gian (3,17.34; 4,34; 5,36; 6,29; 7,28-29; 8,16.18.26.42; 10,36;
11,42; 17,3.25) để thực hiện một sứ mạng. Sau khi hoàn thành sứ mạng ấy, Người
trở về cùng Chúa Cha (7,33; 13,3; 16,5; 17,11.13.23; 20,17). Đó là mầu nhiệm
nhập thể nhắm mục tiêu phục vụ Thiên Chúa là Đấng muốn cứu độ thế gian. Đạo lý
của Gioan thiết yếu được rút từ Ga 20,31.
I. Mầu nhiệm Đức Giêsu và sứ mạng cứu độ của Người
Trước hết, mục đích của Gioan là làm nổi bật mầu nhiệm Đức Giêsu: Người
là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô (20,31a).
Đối với Thiên Chúa, Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (1,14,18; 3,16-18),
được Chúa Cha yêu mến (5,20; 15,9; 17,23-24.26), luôn hợp nhất, sống mật thiết
và hành động chặt chẽ với Chúa Cha (10,30.38; 14,10-11.20; 17,21-23). Chúa Cha
đã trao cho Người nhiệm vụ thực hiện công trình cứu độ (3,17). Vì thế, nỗi ưu
tư khắc khoải của Đức Giêsu, lẽ sống không thể thiếu thì giống như lương thực
nuôi sống Đức Giêsu, đó là "thi hành ý muốn" của Chúa Cha và
"hoàn tất công trình của Người" (4,34).
Đối với nhân loại, Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Kitô (1,41; 4,25-26), nghĩa
là "Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn" (1,34), được Thiên Chúa sai đi
thực hiện sứ vụ cứu thế (4,42) với tư cách ngôn sứ, tư tế và quân vương.
Ở trong cung lòng Chúa Cha, Ngôi Lời đã thấy, đã nghe tất cả những gì
xảy ra trong Thiên Chúa (1,18; 3,11.32; 8,38). Vì thế, Ngôi Lời nhập thể là
Chứng nhân có đủ tư cách nhất để diễn tả ý định cứu độ của Chúa Cha, chuyển đạt
các lời và giáo huấn của Người (3,32.34; 6,46; 7,29; 8,26.28.38.40; 12,49.50;
14,24; 17,8.14). Đức Giêsu tuyên bố: Người là: "ánh sáng cho thế
gian" (1,4.7.9; 9,5; 12,46), ánh sáng ban ánh sáng cho người mù từ thủa
mới sinh (9,6tt), cho những ai không muốn bước đi trong bóng tối (12,35)...
Người là "con đường", bởi vì Người là "sự thật" (14,6):
Người tỏ bày Chúa Cha (12,45; 14,9), Người dẫn tới Chúa Cha, cho biết Chúa Cha
(1,18; 14,6-7); Người còn tỏ bày chính bản thân và sứ mạng của mình đối với
nhân loại. Những hoạt động đó đều thuộc vai trò Ngôn Sứ thực hiện công việc mặc
khải.
Gioan ít nhấn mạnh đến sứ mạng Tư Tế của Đức Giêsu. Trong cả sách, chỉ
có ch. 17 đề cập vấn đề này. Nói chung, Ga 17,1-26 được gọi là "Lời cầu
nguyện của vị thượng tế". Khi "được giương cao lên khỏi mặt đất"
(12,321), khi dâng hy lễ trên đồi Gôngôtha, với tư cách thượng tế của Giao Ước
Mới, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha cho các môn đệ và tất cả những kẻ sẽ
tin vào Người nhờ lời rao giảng của các ông. C. 19 ("Vì họ, con xin thánh
hiến chính mình con") có nghĩa sau đây: Đức Giêsu tự tách ra khỏi đám phàm
nhân để thuộc trọn về Thiên Chúa, bằng việc hiến dâng chính mình làm lễ vật
trong hy lễ Gôngôtha với tư cách thượng tế nhằm gây lợi ích cứu độ cho các môn
đệ và tín hữu.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia hoặc Kitô, vì Người có nhiệm vụ thi hành sứ mạng
Quân Vương. Thi hành sứ mạng quân vương là thực hiện chủ quyền trên thiên nhiên,
ma quỷ, bệnh tật, cái chết và tội lỗi, là trải qua cuộc Thương Khó để chiến
thắng cái chết nơi mình và nơi nhân loại. Nhờ thế, Đức Giêsu trở thành Đấng
hướng dẫn, cai trị, chăm sóc đoàn dân (Mục Tử, Quân Vương), Đấng ban sự sống...
Gioan không sử dụng từ "phép lạ" ("téras",
"térata"), nhưng dùng từ "dấu lạ" ("semeion",
"semeia") để chỉ những việc lạ lùng, những kỳ công do Đức Giêsu làm
nhân danh Thiên Chúa (3,2) nhằm thúc giục những người chứng kiến tin rằng sứ
mạng của mình phát xuất từ Thiên Chúa (2,11; 9,33; 11,40-42). Gioan thường sử
dụng từ "dấu lạ" nói chung (2,23; 3,2; 7,31; 9,16; 11,47; 12,37;
20,30). Tác giả sách Tin Mừng thứ IV không hề nói đến tương quan giữa "dấu
lạ" và sứ mạng tư tế. Chỉ một lần (6,14), độc giả nhận thấy có liên lạc
giữa "dấu lạ" và sứ mạng ngôn sứ; lần khác (2,11), "dấu lạ"
đầu tiên tại Cana được liên kết với vinh quang của Đức Giêsu. Ngoài ra, ở ba
nơi (4,54; 6,2; 12,18), Đức Giêsu làm các "dấu lạ" có liên quan đến
sức khỏe, đến sự sống của con người: Người cho người con trai sắp chết của một
sĩ quan được lành bệnh (4,54); Người chữa lành những kẻ đau ốm (6,2); Người cho
ông Ladarô được sống lại (11,1-44; 12,18). Ngoài chuyện làm các "dấu
lạ" để phục hồi sức khỏe hay sự sống, Đức Giêsu còn tỏ bày chủ quyền của
Người trên thiên nhiên (2,11; 6,10-13.26), bệnh tật (4,46-54; 5,1tt; 6,2;
9,1tt) trên cái chết (11,17.23.5.43-44; 12,9.17), trên ma quỷ (1,5; 12,31;
14,30; 16,11) và tội lỗi (8,36)... Tất cả sứ mạng của Đức Giêsu quy hướng về
"giờ" của Người (2,4; 7,30; 8,20; 12,23.27; 13,1; 17,1), giờ Người bỏ
thế gian để về với Chúa Cha (13,1), giờ Người được tôn vinh bên hữu Chúa Cha
(12,23; 17,1). Lúc đó là lúc Người được tôn vinh bên hữu Chúa Cha (12,23;
17,1). Lúc đó là lúc Người "được giương cao lên" theo hai nghĩa:
"được gương cao lên" thập giá (12,32-33; 8,28) và "được giương
cao lên" trời (3,13.14). Nhờ thế, Đức Giêsu trở thành vị Mục Tử nhân lành
(10,11.14.16) biết chiên của mình (10,14.27), chăm sóc, hướng dẫn (10,4), bảo
vệ đoàn chiên (10,29), ban sự sống dồi dào cho đoàn chiên (10,10), dẫn đưa
những chiên khác về một ràn chiên duy nhất (10,16). Vai trò của Đức Giêsu cũng
là vai trò của vị Quân Vương (1,49; 12,1). Thiên Chúa đã giao mọi sự trong tay
Người (3,35; 13,3); Người có quyền năng trên mọi phàm nhân (17,2); không ai có
thể cướp khỏi tay Người những kẻ thuộc về Người (10,28). Trình thuật về biến cố
Đức Giêsu vào Giêrusalem cũng như trình thuật về cuộc Thương Khó làm nổi bật
vai trò Quân Vương của Người (12,12-16 - 18,36.37; 19,13-15.19-22). Đức Giêsu
đã tiến vào thành Giêrusalem với tư cách là Vua Mêsia (12,13): đó là một cuộc
khải hoàn làm cho lời ngôn sứ Dacaria nên ứng nghiệm (12,15; x. Dc 9,9-10).
Trong trình thuật về cuộc Thương Khó, những lời nói (18,33.37; 19,14-15) và
cách xử sự (19,13.19-22) của tổng trấn Philatô cũng như những kiểu chế giễu của
bọn lính Rôma (19,2-3.5) và phản ứng thù nghịch của các thượng tế (19,15.21) là
những cách nhắc đi nhắc lại cho độc giả tước hiệu Quân Vương và làm đậm nét
tước hiệu này. Nước của Đức Giêsu không phải là một nước trần gian như các nước
khác; Người chẳng có thuộc hạ để bảo vệ bản thân (18,36). Quyền bính của Người
thuộc lãnh vực thần linh của sự thật: Người đến làm chứng cho sự thật (18,37).
Với tư cách Con Thiên Chúa, Đức Giêsu vẫn giữ nơi mình vinh quang mà
Người vẫn có bên Chúa Cha trước khi thế giới được tạo thành (17,5). Nhưng trong
cuộc sống trần gian của Người, vinh quang đó được che giấu đi: Người không cho
vinh quang đó chiếu tỏa vào nhân tính của mình. Đôi khi, Người hé mở vinh quang
đó cho các Tông Đồ và các khán thính giả, như trong sự kiện biến đổi hình dạng
trên núi (có lẽ Ga 1,14 ám chỉ đến sự kiện đó cách kín đáo; x. Mt 17,1tt; Mc
9,2tt; Lc 9,28tt), trong các "dấu lạ" Người làm (2,11; 11,40;
12,28a). Vinh quang đó sẽ được tỏ bày cách trọn vẹn hơn trong biến cố Vượt Qua:
vinh quang Phục Sinh là chính vinh quang đời đời (17,22.24) tỏa chiếu trong
ngày Đức Giêsu sống lại, nhưng đã bắt đầu từ lúc Người được giương cao lên thập
giá (12,23.28b; 13,31-32; 17,1). Đức Giêsu ban cho các tín hữu vinh quang Người
đã nhận từ Chúa Cha (17,22). Người cũng sẽ cho họ được chiêm ngưỡng vinh quang
của Người, khi họ được đoàn tụ với Người (17,24).
Gioan còn muốn đặt tương quan của Đức Giêsu với sự sống: Đức Giêsu là
Đấng ban sự sống. Thiên Chúa nắm chủ quyền tuyệt đối trên sự sống. Người đã
trao cho Đức Giêsu quyền làm chủ sự sống (5,21; 10,18; 17,2). Đức Giêsu mang sự
sống nơi mình (1,4; 5,26), Người là sự sống (11,25; 14,6). Vì thế, Người ban sự
sống cho các tín hữu (5,21; 6,35.48.51.57.58.63; 10,18). Và phương tiện Người
sử dụng để ban sự sống, ấy là ban lời của Người (6,68) và trở nên "bánh
trường sinh" (6,35.48), bánh đem lại sự sống cho các tín hữu (6,57-58).
II. Tín hữu và sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu
Phần II của mục "Đạo lý" dựa trên Ga 20, 31b: "Còn những
điều đã chép ở đây là... để anh em Tin mà Được Sự Sống nhờ danh Người".
1. "Tin":
Đức Giêsu dùng các "dấu lạ" để khơi dậy đức tin nơi các khán
giả 92,11.23; 4,45.53; 11,15.45.48). Lời rao giảng, giáo huấn của Đức Giêsu
cũng nhắm mục tiêu tạo điều kiện cho đức tin nảy sinh nơi tâm hồn các thính giả
(2,22; 4,41.50; 17,8). Ga 19,35 cho thấy: đức tin nơi các độc giả của Gioan
phải dựa vào lời chứng của "chứng nhân" là tác giả. Tông đồ Gioan
nhìn vào ngôi mộ trống, thấy các di vật còn để trong đó, cũng đã tin (20,8).
Nhưng cuối cùng, đức tin của con người đặt vào chính Đức Giêsu: 1,7 (tin vào Đức Giêsu là "ánh sáng"); 4,39.42;
5,24.38 ; 6,29.35.37.44.45.65.70; 7,31.38.39; 8,24.30; 9,35-38;
10,37-38.42; 11,25-26.27.45; 12,11.36.42.44.46; 13,19; 14,1.11.12; 17,20.
Theo Gioan, tin là đón tiếp Đức Giêsu (1,12; 5,43), là nhận biết Chúa
Cha và Đức Giêsu (17,3), là đến với Đức Giêsu (3,20-21; 5,40; 6,35.37.44.45;
7,37-38; 14,6), nhận ra Người là Đấng Chúa Cha sai đến thế gian (5,24.38;
17,8.21.23.25).
Nhiều người đã từ khước Đức Giêsu, không chịu đón nhận Người và lời của
Người (3,32; 5,43; 6,36; 7,5; 8,45-46; 10,25-26; 12,37.48; 16,9). Họ không chịu
tin như tông đồ Tôma đã không tin (20,25.27.29). Họ không tin, nên đã bị lên án
rồi (3,18).
2. "Được sự sống":
Ai tin thì không bị lên án (3,18). Người Kitô hữu "có sự sống"
nơi mình, vì được ăn thịt và uống máu Đức Giêsu (6,53), vì thuộc đoàn chiên của
Người (10,10). Vì tin, nên tín hữu "có sự sống" hoặc "có sự sống
đời đời" (3,15-16.36; 5,24.40; 6,40.47; 11,26; 20,31). "Sự sống đời
đời" (3,15.16.36; 4,14; 5,24.39; 6,40.47.54.68; 10,28; 17,2-3; 20,31) là
sự sống mới mà tín hữu lãnh nhận được trong thời cuối cùng như ân huệ do Đấng
Mêsia mang đến. "Có sự sống đời đời" nơi mình là được hiệp thông với
Thiên Chúa, Nguồn sống, là lĩnh nhận từ Thiên Chúa sự sống của Người. Sự sống
mới đó làm cho tín hữu chiến thắng được cái chết. Sự sống đời đời còn được hiểu
theo nhãn quan sêmít và Thánh Kinh về sự biết (X. 17,2-3). Theo nhãn quan này,
sự biết không chỉ là sự nhận thức trừu tượng nằm trong lãnh vực trí óc, nhưng
phát xuất từ một kinh nghiệm sống và được tình thương thấm nhuần. Vì thế,
"có sự sống đời đời" là hiểu biết Chúa Cha cách thực thụ và trọn vẹn,
yêu mến Người và gắn bó sâu xa với Người; sự hiểu biết và lòng yêu mến này chỉ
đạt được khi tín hữu hiểu biết và yêu mến Chúa Kitô. Ngay từ bây giờ, tín hữu
đã lĩnh nhận sự sống mới ấy rồi (3,36; 5,24; 6,40.68).
I. LỜI TỰA
Chương 1
(1) Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
(2) Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
(3) Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
(4) Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
(5) Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
(6) Có một người được Thiên Chúa sai đến,
tên là Gioan.
(7) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
(8) Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
(9) Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
(10) Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
(11) Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
(12) Còn những ai đón nhận,
tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
(13) Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.
(14) Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
(15) Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố:
"Đây là Đấng mà tôi đã nói:
Người đến sau tôi,
nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi."
(16) Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
(17) Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có.
(18) Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ;
nhưng Con Một là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
II. SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU
1. LOAN BÁO NHIỆM CỤC MỚI
A. TUẦN LỄ KHAI MẠC
Chương 1:
(tiếp theo)
Lời chứng của ông Gioan
(19) Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Dothái từ Giêrusalem
cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" (20) Ông
tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng
Kitô". (21) Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia
không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ
chăng?" Ông đáp: "Không." (22) Họ liền nói với ông: "Thế
ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông
nói gì về chính ông?" (23) Ông nói:
Tôi là tiếng người hô trong hoang địa:
Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi,
như ngôn sứ I-sai-a đã nói. (24) Trong nhóm được cử đi, có mấy người
thuộc phái Pharisêu. (25) Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu
ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?"
(26) Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị
đang ở giữa các ông mà các ông không biết. (27) Người sẽ đến sau tôi và tôi
không đáng cởi quai dép cho Người." (28) Các việc đó đã xảy ra tại
Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.
(29) Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói:
"Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. (30) Chính Người
là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng:
Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.
(31) Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ítraen,
tôi đến làm phép rửa trong nước." (32) Ông Gioan còn làm chứng: "Tôi
đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. (33) Tôi đã
không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo
tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng
làm phép rửa trong Thánh Thần". (34) Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng
Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn".
Các môn đệ đầu tiên
(35) Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ
của ông. (36) Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là
Chiên Thiên Chúa". (37) Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu.
(38) Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: "Các anh tìm
gì thế?" Họ đáp: "Thưa Rápbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?"
(39) Người bảo họ: "Đến mà xem". Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại
với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều.
(40) Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông
Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. (41) Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và
nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia" (nghĩa là Đấng Kitô). (42) Rồi ông
dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simon và nói: "Anh là
Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha" (tức là Phêrô).
(43) Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê. Người gặp ông
Philípphê và nói: "Anh hãy theo tôi". (44) Ông Philípphê là người
Bétxaiđa, cùng quê với các ông Anrê và Phêrô.
(45) Ông Philípphê gặp ông Nathanaen và nói: "Đấng mà sách Luật
Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse,
người Nadarét". (46) Ông Nathanaen liền bảo: "Từ Nadarét, làm sao có
cái gì hay được?" Ông Philípphê trả lời: "Cứ đến mà xem!" (47)
Đức Giêsu thấy ông Nathanaen tiến về phía mình, liền nói về ông rằng: "Đây
đích thật là một người Ítraen, lòng dạ không có gì gian dối". (48) Ông
Nathanaen hỏi Người: "Làm sao Ngài lại biết tôi?" Đức Giêsu trả lời:
"Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh
rồi". (49) Ông Nathanaen nói: "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên
Chúa, chính Thầy là Vua Ítraen!" (50) Đức Giêsu đáp: "Vì tôi nói với
anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những
điều lớn lao hơn thế nữa". (51) Người lại nói: "Thật, tôi bảo thật
các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên
xuống xuống trên Con Người".
Chương 2:
Tiệc cưới Cana
(1) Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có
thân mẫu Đức Giêsu. (2) Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. (3) Khi
thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi".
(4) Đức Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con
chưa đến". (5) Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các
anh cứ việc làm theo".
(6) Ở đó có đặt sáu chum bằng đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục
người Dothái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít
nước. (7) Đức Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ
đổ đầy tới miệng. (8) Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem
cho ông quản tiệc". Họ liền đem cho ông. (9) Khi người quản tiệc nếm thử
nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước
thì biết), ông mới gọi tân lang lại (10) và nói: "Ai ai cũng thết rượu
ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại
giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ". (11) Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên
này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào
Người. (12) Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống
Caphácnaum và ở lại đó ít ngày.
B. LỄ VƯỠT QUA THỨ NHẤT
Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ
(13) Gần đến lễ Vượt Qua của người Dothái, Đức Giêsu lên thành
Giêrusalem. (14) Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và
những người đang ngồi đổi tiền. (15) Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất
cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc,
Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. (16) Người nói với những kẻ bán
bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành
nơi buôn bán". (17) Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh
Thánh:
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
(18) Người Dothái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ chúng
tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" (19) Đức Giêsu đáp: "Các ông
cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại". (20) Người
Dothái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà
nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" (21) Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn
nói ở đây là chính thân thể Người. (22) Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy,
các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu
đã nói.
Đức Giêsu ở tại Giêrusalem
(23) Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ
tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. (24) Nhưng chính Đức
Giêsu không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, (25) và không cần ai làm chứng
về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.
Chương 3:
Cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô
(1) Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của
người Dothái. (2) Ông đến gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông nói với Người: "Thưa
Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy,
chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người
ấy". (3) Đức Giêsu trả lời:
"Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu
không được sinh ra bởi ơn trên".
(4) Ông Nicôđêmô thưa: "Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh
ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra
sao?" (5) Đức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu
không sinh ra bởi nước và Thần Khí. (6) Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là
xác thịt; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là thần khí. (7) Ông đừng
ngạc nhiên vì tôi đã nói:các ông cần phải được sinh ra bởi ơn trên. (8) Gió
muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và
thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy".
(9) Ông Nicôđêmô hỏi Người: "Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra
được?" (10) Đức Giêsu đáp:
"Ông là bậc thầy trong dân Ítraen, mà lại không biết những chuyện
ấy! (11) Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng
tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời
chứng của chúng tôi. (12) Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà
các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên
trời, làm sao các ông tin được? (13) Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người,
Đấng từ trời xuống. (14) Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con
Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được
sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy,
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng
là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của
Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không
tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế
gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều
xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh
sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Nhưng kẻ sống theo sự thật,
thì đến cùng ánh sáng,
để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa".
để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa".
Sứ vụ của Đức Giêsu tại Giuđê, Lời chứng cuối cùng
của ông Gioan
(22) Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đi tới miền Giuđê. Người ở lại nơi
ấy với các ông và làm phép rửa. (23) Còn ông Gioan, ông cũng đang làm phép rửa
tại Ênôn, gần Salêm, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép
rửa. (24) Lúc ấy, ông Gioan chưa bị tống giam.
(25) Bấy giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông
Gioan và một người Dothái về việc thanh tẩy. (26) Họ đến gặp ông Gioan và nói:
"Thưa Thầy, người trước đây đã ở với Thầy bên kia sông Giođan và được Thầy
làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với
ông". (27) Ông Gioan trả lời:
"Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban".
(28) Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói: "Tôi đây không
phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người".
(29) Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng
đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm
vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn.
(30) Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi. (31) Đấng từ trên
cao mà đến, thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra, thì thuộc về đất và nói
những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến, thì ở trên mọi người; (32) Người
làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của
Người. (33) Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân
thật. (34) Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên
Chúa,
vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. (35) Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. (36) Ai tin vào người Con, thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con, thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.
vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. (35) Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. (36) Ai tin vào người Con, thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con, thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.
Chương 4:
Đức Giêsu tại Samari
(1) Nhóm Pharisêu nghe tin Đức Giêsu thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều
môn đệ hơn ông Gioan. (2) (Thực ra, không phải chính Đức Giêsu làm phép rửa,
nhưng là các môn đệ của Người). (3) Biết thế, Đức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở
lại miền Galilê. (4) Do đó, Người phải băng qua Samari. (5) Vậy, Người đến một
thành xứ Samari, tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse.
(6) Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống
bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
(7) Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy:
"Chị cho tôi xin chút nước uống!" (8) Quả thế, các môn đệ của Người
đã vào thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người
Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" Quả
thế, người Dothái không được giao thiệp với nguòi Samari. (10) Đức Giêsu trả
lời:
"Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị:
"Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị
nước hằng sống".
(11) Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy
ông lấy đâu ra nước hằng sống? (12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp chúng
tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống giếng này, cả con
cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy". (13) Đức Giêsu trả lời:
"Ai uống nước này, sẽ lại khát. (14) Còn ai uống nước tôi cho, sẽ
không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước
vọt lên, đem lại sự sống đời đời".
(15) Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ
nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước". (16) Người bảo
chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây". (17) Người phụ nữ
đáp: "Tôi không có chồng". Đức Giêsu bảo: "Chị nói: 'Tôi không
có chồng' là phải, (18) vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống
với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng". (19) Người phụ nữ nói
với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ... (20) Cha ông
chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo:
Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa". (21) Đức Giêsu phán:
"Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha,
không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. (22) Các người thờ Đấng các người
không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ
dân Dothái. (23) Nhưng giờ đã đến - và chính lúc này đây giờ những người thờ
phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha
tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. (24) Thiên Chúa là thần khí, và
những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật".
(25) Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ
đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". (26) Đức
Giêsu nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây".
(27) Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói
chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: "Thầy cần gì vậy?"
Hoặc "Thầy nói gì với chị ấy?" (28) Người phụ nữ để vò nước lại, vào
thành và nói với người ta: (29) "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi
tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?" (30) Họ
ra khỏi thành và đến gặp Người.
(31) Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: "Rápbi, xin mời
Thầy dùng bữa". (32) Người nói với các ông: "Thầy phải dùng một thứ
lương thực mà anh em không biết". (33) Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã
có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?" (34) Đức Giêsu nói với các ông:
"Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và
hoàn tất công trình của Người. (35) Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới
đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín
vàng đang chờ ngày gặt hái! (36) Ai gặt thì lãnh tiền công
và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. (37) Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt" quả là đúng! (38) Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ".
và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. (37) Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt" quả là đúng! (38) Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ".
(39) Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời
người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. (40) Vậy, khi
đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai
ngày. (41) Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. (42) Họ bảo
người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật,
chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian".
Đức Giêsu ở Galilê
(43) Sau hai ngày, Đức Giêsu bỏ nơi đó đi Galilê. (44) Chính Người đã
quả quyết: ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình. (45) Khi người đến
Galilê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã chứng kiến tất cả những gì
Người làm tại Giêrusalem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi dự lễ.
Dấu lạ thứ hai ở Cana: Đức Giêsu chữa con của một
sĩ quan cận vệ của nhà vua
(46) Vậy Người trở lại Cana miền Galilê, là nơi Người đã làm cho nước
hóa thành rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận vệ của nhà vua có đứa con trai đang
bị bệnh tại Caphácnaum. (47) Khi nghe tin Đức Giêsu từ Giuđê đến Galilê, ông
tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó sắp chết. (48) Đức Giêsu nói với
ông: "Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu!"
(49) Viên sĩ quan nói: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết
mất!" (50) Đức Giêsu bảo: "Ông cứ về đi, con ông sống". Ông tin
vào lời Đức Giêsu nói với mình, và ra về. (51) Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân
đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. (52) Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá
hơn vào giờ nào. Họ đáp: "Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết
sốt". (53) Người cha nhận ra là vào đúng giờ đó, Đức Giêsu đã nói với
mình: "Con ông sống", nên ông và cả nhà đều tin. (54) Đó là dấu lạ
thứ hai Đức Giêsu đã làm, khi Người từ miền Giuđê đến miền Galilê.
2. LỄ THỨ HAI TẠI GIÊRUSALEM
Chương 5:
Đức Giêsu chữa một người đau ốm ở hồ nước tại
Bếtdatha
(1) Sau đó, nhân dịp lễ của người Dothái, Đức Giêsu lên Giêrusalem. (2)
Tại Giêrusalem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Hipri gọi là Bếtdatha. Hồ
này có năm hành lang. (3) Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la
liệt ở đó, (chờ cho nước động, (4) vì thỉnh thoảng có thiên thần Chúa xuống hồ
khuấy nước lên; khi nước khuấy lên, ai xuống trước, thì dù mắc bệnh gì đi nữa,
cũng được khỏi). (5) Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. (6) Đức
Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói:
"Anh có muốn khỏi bệnh không?" (7) Bệnh nhân đáp: "Thưa Ngài,
tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước khuấy lên. Lúc tôi tới đó, thì đã
có người khác xuống trước mất rồi!" (8) Đức Giêsu bảo: "Anh hãy chỗi
dậy, vác chõng và đi!" (9) Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và bước
đi.
Hôm đó lại là ngày sabát. (10) Người Dothái mới nói với kẻ được khỏi
bệnh: "Hôm nay là ngày sabát, anh không được phép vác chõng!" (11)
Nhưng anh đáp: "Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: 'Anh hãy
vác chõng và đi!'" (12) Họ hỏi anh: "Ai là người đã bảo anh: 'Vác
chõng và đi'?" (13) Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai. Quả
thế, Đức Giêsu đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. (14) Sau đó, Đức Giêsu gặp
người ấy trong Đền Thờ và nói: "Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội
nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!" (15) Anh ta đi nói với người Dothái:
Đức Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh. (16) Do đó, người Dothái chống đối
Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày sabát. (17) Nhưng Đức Giêsu đáp lại:
"Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". (18) Bởi
vậy, người Dothái lại càng tìm cách giết Đức Giêsu, vì không những Người phá
luật sabát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình
ngang hàng với Thiên Chúa.
Diễn từ về công việc của Chúa Con
(19) Đức Giêsu lên tiếng nói với họ rằng: "Thật, tôi bảo thật các
ông: người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy
Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. (20) Quả
thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ
còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng
phải kinh ngạc. (21) Chúa Cha làm cho kẻ chết chỗi dậy và ban sự sống cho họ
thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tùy ý. (22) Quả thật, Chúa Cha
không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, (23) để ai
nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người
Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con. (24) Thật, tôi
bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống
đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống. (25) Thật,
tôi bảo thật các ông: giờ đã đến - và chính là lúc này đây giờ các kẻ chết nghe
tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ được sống. (26) Quả thật, Chúa Cha có sự
sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như
vậy, (27) lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người.
(28) Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ
sẽ nghe tiếng người Con (29) và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống
lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án. (30) Tôi
không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết
của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo
ý Đấng đã sai tôi. (31) Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi
không thật. (32) Có Đấng khác làm chứng về tôi và tôi biết: lời Người làm chứng
về tôi là lời chứng thật. (33) Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gioan, và
ông ấy đã làm chứng cho sự thật. (34) Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một
phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điêu này để các ông được cứu độ. (35) Ông
Gioan là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông
trong một thời gian. (36) Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời
chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn
thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi.
(37) Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng cho tôi. Các ông
đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người. (38)
Các ông không giữ lời Người ở lại trong lòng, bởi vì chính các ông không tin
vào Đấng Người đã sai đến. (39) Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng
trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng
về tôi. (40) Các ông không muốn đến cùng tôi để được sự sống. (41) Tôi không
cần người đời tôn vinh. (42) Nhưng tôi biết: các ông không có lòng yêu mến
Thiên Chúa. (43) Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận.
Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận. (44) Các ông
tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy
nhất, thì làm sao các ông có thể tin được? (45) Các ông đừng tưởng là tôi sẽ tố
cáo các ông với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ông chính là Môsê, người mà các ông tin
cậy. (46) Vì nếu các ông tin ông Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông
ấy đã viết về tôi. (47) Nhưng nếu các ông không tin các điều ông ấy viết, thì
làm sao tin được lời tôi nói?"
3. LỄ VƯỢT QUA
DIỄN TỪ VỀ BÁNH TRƯỜNG SINH
Chương 6:
Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều
(1) Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ
Tibêria. (2) Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến
những dấu lạ Người làm cho những kẻ đau ốm. (3) Đức Giêsu lên núi và ngồi đó
với các môn đệ. (4) Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Dothái.
(5) Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình.
Người hỏi ông Philípphê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" (6)
Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. (7) Ông
Philípphê đáp: "Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho
mỗi người một chút". (8) Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simon
Phêrô, thưa với Người: (9) "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch
và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!" (10) Đức Giêsu
nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Chỗ ấy có nhiều cỏ.
Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. (11) Vậy, Đức
Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá
nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý. (12) Khi họ đã
no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí
đi". (13) Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch
người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. (14) Dân chúng thấy dấu
lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế
gian!" (15) Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm
vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ mà đến với các môn đệ
(16) Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, (17) rồi xuống thuyền đi về
phía Caphácnaum bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giêsu chưa đến với các ông.
(18) Biển động, vì gió thổi mạnh. (19) Khi đã chèo được chừng hai mươi lăm hoặc
ba mươi chặng đường, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần
thuyền. Các ông hoảng sợ. (20) Nhưng Người bảo các ông: "Chính Thầy đây,
đừng sợ!" (21) Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó
thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.
Diễn từ trong hội đường Caphácnaum
(22) Hôm sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy
rằng ở đó đã chỉ có một chiếc thuyền và Đức Giêsu lại không cùng xuống thuyền
đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông ra đi mà thôi. (23) Tuy nhiên, có những
thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng
lời tạ ơn. (24) Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không
có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Caphácnaum tìm kiếm Người. (25) Khi đã gặp thấy
Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ
vậy?" (26) Đức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các
ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. (27) Các ông hãy ra
công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực
thường tồn đem lại phúc trường sinh,,BR> là thứ lương thực Con Ngươi sẽ ban
cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác
nhận".
(28) Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những
việc Thiên Chúa muốn?" (29) Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho
các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến". (30) Họ lại hỏi: "Vậy
chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì
đây? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép:
Người đã cho họ ăn bánh từ trời".
(32) Đức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn
bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích
thực, (33) vì bánh Thiên Chúa ban
là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian".
là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian".
(34) Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ
bánh ấy". (35) Đức Giêsu bảo họ:
"Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói;
ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (36) Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã
thấy tôi mà không tin. (37) Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến
với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, (38) vì tôi tự trời mà
xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. (39)
Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không
để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. (40) Thật vậy, ý
của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con,
thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết".
thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết".
(41) Người Dothái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói:
"Tôi là bánh từ trời xuống". (42) Họ nói: "Ông này chẳng phải là
ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây
giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?" Đức Giêsu bảo họ:
"Các ông đừng có xầm xì với nhau! (44) Chẳng ai đến với tôi được,
nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho
người ấy sống lại trong ngày sau hết. (45) Xưa có lời chép trong sách các ngôn
sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón
nhận
giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. (46) Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. (47) Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời.
(48) Tôi là bánh trường sinh. (49) Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. (50) Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. (51) Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây,
để cho thế gian được sống".
giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. (46) Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. (47) Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời.
(48) Tôi là bánh trường sinh. (49) Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. (50) Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. (51) Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây,
để cho thế gian được sống".
(52) Người Dothái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm
sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?" (53) Đức Giêsu nói
với họ:
"Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu
Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. (54) Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, (55)
vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. (56) Ai ăn thịt và
uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.
(57) Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời".
(57) Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời".
(59) Đó là những điều Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở
Caphácnaum.
(60) Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai
quá! Ai mà nghe nổi?" (61) Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ
đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm
chướng , không chấp nhận được ư? (62) Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã
ở trước kia thì sao?
(63) Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy
nói với anh em là thần khí và là sự sống.
(64) Nhưng trong anh em có những kẻ không tin". Quả thật, ngay từ
đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. (65)
Người nói tiếp: "Vì thế, Thầy bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu
Chúa Cha không ban ơn ấy cho". (66) Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không
còn đi với Người nữa.
Ông Phêrô tuyên xưng lòng tin
(67) Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng
muốn bỏ đi hay sao?" (68) Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ
Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời
đời. (69) Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng
Thánh của Thiên Chúa". (70) Đức Giêsu đáp: "Chẳng phải Thầy đã chọn
anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!"
(71) Người muốn nói về Giuđa, con ông Simon Ítcariốt; thật thế, chính y, một
môn đệ trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Người.
4. LỄ LỀU
Chương 7:
Đức Giêsu lên Giêrusalem dự lễ và giảng dạy
(1) Sau đó, Đức Giêsu thường đi lại trong miền Galilê; thật vậy, Người
không muốn đi lại trong miền Giuđê, vì người Dothái tìm giết Người.
(2) Lễ Lều của người Dothái gần tới, (3) anh em Đức Giêsu nói với Người:
"Ông bỏ đây mà sang miền Giuđê đi, để cả môn đệ của ông cũng được nhìn
thấy những việc ông làm, (4) vì không ai muốn được người ta biết đến mà lại
hoạt động âm thầm. Nếu ông làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ
biết". (5) Thật thế, anh em Người không tin vào Người. (6) Đức Giêsu nói
với họ: "Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận
tiện. (7) Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm
chứng rằng các việc nó làm thì xấu xa. (8) Các anh cứ lên dự lễ đi; còn tôi,
tôi không lên dự lễ này, vì thời của tôi chưa chín muồi". (9) Nói thế rồi,
Người ở lại Galilê. (10) Tuy nhiên, khi anh em Người đã lên dự lễ, thì chính
Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật. (11) Người Dothái tìm
kiếm Người trong dịp lễ và nói: "Ông ấy đâu rồi?" (12) Dân chúng bàn
tán nhiều về Người. Kẻ thì bảo: "Đó là một người tốt". Kẻ thì nói:
"Không, ông ta mê hoặc dân chúng". (13) Nhưng không ai dám công khai
nói về Người, vì sợ người Dothái.
(14) Vào giữa kỳ lễ, Đức Giêsu lên Đền Thờ và giảng dạy. (15) Người
Dothái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: "Ông này không học hành gì, mà sao lại
thông thạo chữ nghĩa thế!" (16) Đức Giêsu trả lời:
"Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai
tôi. (17) Ai muốn làm theo ý của Người, thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên
Chúa hay do tôi tự mình giảng dạy. (18) Ai tự mình giảng dạy, thì tìm vinh
quang cho Đấng đã sai mình, thì là người chân thật, và nơi người ấy không có gì
là bất chính. (19) Ông Môsê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không
một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!
Sao các ông lại tìm cách giết tôi?" (20) Dân chúng đáp: "Ông
bị quỷ ám rồi! Có ai tìm giết ông đâu?" (21) Đức Giêsu trả lời: "Tôi
chỉ làm có một việc, mà tất cả các ông đều ngạc nhiên. (22) Ông Môsê đã truyền
cho các ông làm phép cắt bì (thực ra, phép ấy đã có từ thời các tổ phụ, chứ
không phải từ thời ông Môsê), và các ông làm phép cắt bì cả trong ngày sabát.
(23) Vậy, nếu có người có chịu phép cắt bì trong ngày sabát để khỏi lỗi luật Môsê,
thì sao các ông lại nổi giận với tôi, vì tôi đã chữa lành toàn thân một người
trong ngày sabát? (24) Các ông đừng xét đoán theo bề ngoài nữa, nhưng hãy xét
đoán cho công minh".
Dân chúng tranh luận về nguồn gốc của Đấng Kitô
(25) Bấy giờ có những người ở Giêrusalem nói: "Ông này không phải
là người họ đang tìm giết đó sao? (26) Kìa, ông ta ăn nói công khai mà họ chẳng
bảo gì cả. Phải chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Đấng Kitô?
(27) Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Kitô, khi Người
đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả". (28) Lúc giảng dạy trong
Đền Thờ, Đức Giêsu nói lớn tiếng rằng:
"Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu
có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật.
Các ông, các ông không biết Người. (29) Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người màđến và chính Người đã sai tôi".
Các ông, các ông không biết Người. (29) Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người màđến và chính Người đã sai tôi".
(30) Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì
giờ của Người chưa đến.
Đức Giêsu loan báo Người sắp ra đi
(31) Trong dân chúng, có nhiều kẻ đã tin vào Người, họ nói: "Khi
Đấng Kitô đến, liệu Người có làm nhiều dấu lạ hơn ông này chăng?" (32)
Người Pharisêu nghe dân chúng bàn tán với nhau về Người như thế, nên họ và các
thượng tế sai vệ binh đi bắt Người. (33) Vậy, Đức Giêsu bảo họ:
"Tôi còn ở với các ông ít lâu nữa thôi, rồi tôi đi đến cùng Đấng đã
sai tôi. (34) Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi tôi ở, các ông không thể
đến được".
(35) Người Dothái liền nói với nhau: "Ông ấy sắp đi đâu mà chúng ta
không gặp được? Phải chăng ông sắp đi gặp kiều bào sống giữa người Hy Lạp, để
giảng dạy cho người Hy Lạp? (36) Ông ấy muốn nói gì khi bảo:
'Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi tôi ở, các ông không thể đến
được'?"
Lời hứa ban nước hằng sống
(37-38) Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất.
Đức Giêsu đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng:
"Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!"
Như Kinh Thánh đã nói:
Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.
(39) Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh
nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giêsu chưa được tôn
vinh.
Dân chúng lại tranh luận về nguồn gốc của Đấng Kitô
(40) Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: "Ông
này thật là vị ngôn sứ". (41) Kẻ khác rằng: "Ông này là Đấng
Kitô". Nhưng có kẻ lại nói: "Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê
sao? (42) Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua
Đavít và từ Bêlem, làng của vua Đavít sao?" (43) Vậy, vì Người mà dân
chúng đâm ra chia rẽ. (44) Một số trong bọn họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có
ai tra tay bắt.
(45) Các vệ binh, trở về với các thượng tế và người Pharisêu. Họ liền
hỏi chúng: "Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây?" (46) Các vệ
binh trả lời: "Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!" (47)
Người Pharisêu liền nói với chúng: "Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê
hoặc rồi sao? (48) trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pharisêu, đã có mặt ai
tin vào tên ấy đâu? (49) Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật,
đúng là quân bị nguyền rủa!" (50) Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là
Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Đức Giêsu; ông nói với họ: (51) "Lề Luật
của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy
làm gì không?" (52) Họ đáp: "Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê
sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê
cả".
Người phụ nữ ngoại tình
(53) Sau đó, ai nấy trở về nhà mình.
Chương 8:
(1) Còn Đức Giêsu thì đến núi Ôliu.
(2) Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người
ngồi xuống giảng dạy họ. (3) Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến
trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở
giữa, (4) rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang
đang ngoại tình. (5) Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá
hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" (6) Họ nói thế nhằm thử Người,
để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên
đất. (7) Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các
ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". (8) Rồi Người lại cúi
xuống viết trên đất. (9) Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ
những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng
ở giữa. (10) Người ngẩng lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên
án chị sao?" (11) Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả".
Đức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi,
và từ nay đừng phạm tội nữa!"
Đức Giêsu, ánh sáng cho trần gian
(12) Đức Giêsu lại nói với người Dothái: "Tôi là ánh sáng thế gian.
Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem
lại sự sống".
Tranh luận về lời chứng của Đức Giêsu liên quan đến
bản thân Người
(13) Người Pharisêu nói với Đức Giêsu: "Ông làm chứng cho chính
mình; lời chứng của ông không thật!" (14) Người trả lời:
"Tôi có làm chứng cho chính mình đi nữa, thì lời chứng của tôi vẫn
là chứng thật, bởi vì tôi biết tôi từ đâu tới và đi đâu. Còn các ông, các ông
không biết tôi từ đâu tới và đi đâu. (15) Các ông xét đoán theo kiểu người
phàm; phần tôi, tôi không xét đoán ai cả. (16) Mà nếu tôi có xét đoán, thì sự
xét đoán của tôi vẫn đúng sự thật, vì không phải chỉ có mình tôi, nhưng có tôi
và Đấng đã sai tôi. (17) Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của
hai người là chứng thật. (18) Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng
đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi". (19) Họ liền hỏi người: "Cha ông
ở đâu?" Đức Giêsu đáp: "Các ông không biết tôi, cũng chẳng biết Cha
tôi. Nếu các ông biết tôi, thì hẳn cũng biết Cha tôi".
(20) Người đã nói những lời ấy, khi giảng dạy trong Đền Thờ, tại nơi đặt
thùng tiền dâng cúng. Không có ai bắt Người, vì giờ của Người chưa đến.
(21) Đức Giêsu lại nói với họ: "Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và
các ông sẽ mang tội mình mà chết. Nơi tôi đi, các ông không thể đến được".
(22) Người Dothái mới nói: "Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại
nói" 'Nơi tôi đi, các ông không thể đến được'?" (23) Người bảo họ:
"Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc
về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. (24) Tôi đã nói với
các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không
tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi minh mà chết".
(25) Họ liền hỏi Người: "Ông là ai?" Đức Giêsu đáp:
"Hoàn toàn đúng như tôi vừa nói với các ông đó. (26) Tôi còn có
nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Đấng đã sai tôi là Đấng chân
thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói".
(27) Họ không hiểu là Đức Giêsu nói với họ về Chúa Cha. (28) Người bảo
họ:
"Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là
Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã
dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy. (29) Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người
không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người".
(30) Khi Đức Giêsu nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.
Đức Giêsu và ông Ápraham
(31) Vậy, Đức Giêsu nói với những người Dothái đã tin Người:
"Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ
tôi; (32) các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông".
(33) Họ đáp: "Chúng tôi là dòng dõi ông Ápraham. Chúng tôi không hề
làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?"
(34) Đức Giêsu trả lời:
"Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội.
(35) Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những
người tự do. (37) Tôi biết các ông là dòng dõi ông Ápraham, nhưng các ông tìm
cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông. (38) Phần tôi, tôi nói
những điều đã thấy nơi Cha tôi; còn các ông, các ông làm những gì đã nghe cha
các ông nói".
(39) Họ đáp: "Cha chúng tôi là ông Ápraham". Đức Giêsu nói:
"Giả như các ông là con cái ông Ápraham, hẳn các ông phải làm những
việc ông Ápraham đã làm. (40) Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người
đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông
Ápraham đã không làm. (41) Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông
làm".
Họ mới nói: "Chúng tôi đâu phải là con hoang. chúng tôi chỉ có một
Cha: đó là Thiên Chúa!" (42) Đức Giêsu bảo họ:
"Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự
mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi. (43) Tại sao các ông không hiểu lối
nói của tôi? Là vì các ông không thể nghe lời tôi nói. (44) Cha các ông là ma
quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã
không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó
theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối. (45) Còn
tôi, chính vì tôi nói sự thật, nên các ông không tin tôi. (46) Ai trong các ông
chứng minh được là tôi có tội? Nếu tôi nói sự thật, sao các ông lại không tin
tôi? (47) Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các
ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa".
(48) Người Dothái đáp: "Chúng tôi bảo ông là người Samari và người
bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao? (49) Đức Giêsu trả lời:
"Tôi không bị quỷ ám. Nhưng tôi tôn kính Cha tôi; còn các ông, các
ông lại làm nhục tôi. (50) Phần tôi, tôi không tìm vinh quang cho mình. Có Đấng
tìm cho tôi và xét xử cho tôi. (51) Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời
tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết".
(52) Người Dothái liền nói: "Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị
quỷ ám. Ông Ápraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói:
"Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết".
(53) Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Ápraham sao?
Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự coi mình là ai?" (54) Đức
Giêsu đáp:
"Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả.
Đấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các
ông. (55) Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi
không biết Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng tôi biết Người
và giữ lời Người. (56) Ông Ápraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng
được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ".
(57) "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Ápraham!"
(58) Đức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Ápraham, thì tôi, Tôi
Hằng Hữu!"
(59) Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giêsu lánh đi và ra khỏi
Đền Thờ.
Chương 9:
Đức Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh
(1) Đi ngang qua, Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (2)
Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra
đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (3) Đức Giêsu trả lời: "Không
phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra
là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
(4) Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn
sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. (5) Bao lâu Thầy còn ở thế gian,
Thầy là ánh sáng thế gian".
(6) Nói xong, Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức
vào mắt người mù, (7) rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa
(Silôác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi
về thì nhìn thấy được.
(8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin
mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?" (9) Có
người nói: "Chính hắn đó!" Kẻ khác lại nói rằng: "Không phải
đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!" Còn anh ta thì quả quyết: "Chính
tôi đây!" (10) Người ta liền hỏi anh: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra
được như thế?" (11) Anh ta trả lời: "Người tên là Giêsu đã trộn một
chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: 'Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa'. Tôi đã đi,
và sau khi rửa tôi nhìn thấy được". (12) Họ lại hỏi anh: "Ông ấy đâu?"
Anh ta đáp: "Tôi không biết".
(13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. (14) Nhưng
ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm mắt anh mở ra lại là ngày sabát. (15) Vậy,
các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả
lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy".
(16) Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của
Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát"; kẻ thì bảo: "Một người tội
lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" Thế là họ đâm ra chia rẽ.
(17) Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho
anh?" Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!"
(18) Người Dothái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy
được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. (19) Họ hỏi: "Anh này có phải là con
ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại
nhìn thấy được?" (20) Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng
tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. (21) Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi
không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông
cứ hỏi nó; nó đã lớn khôn rồi, tự nó nói về mình được." (22) Cha mẹ anh
nói thế vì sợ người Dothái. Thật vậy, người Dothái đã đồng lòng trục xuất khỏi
hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. (23) Vì thế, cha mẹ anh
mới nói: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".
(24) Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy
tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi".
(25) Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không
biết. Tôi chỉ biết một điều: Trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy
được!" (26) Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã
mở mắt cho anh thế nào?" (27) Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông
rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó
nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?" (28) Họ liền mắng
nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn
đệ của ông Môsê. (29) Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng
chúng ta không biết ông ấy ở đâu mà đến". (30) Anh đáp: "Kể cũng lạ
thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã
mở mắt cho tôi! (31) Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi;
còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.
(32) Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.
(33) Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm
được gì". (34) Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày
lại muốn làm thầy chúng ta ư?" Rồi họ trục xuất anh.
(35) Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp lại anh, Người
hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?" (36) Anh đáp: "Thưa Ngài,
Đấng ấy là ai để tôi tin?" (37) Đức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy
Người. Chính Người đang nói với anh đây". Anh nói: "Thưa Ngài, tôi
tin". Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
(39) Đức Giêsu nói:
"Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy
được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!"
(40) Những người Pharisêu đang đứng ở đó với Đức Giêsu nghe vậy, liền
lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?" (41) Đức Giêsu
bảo họ:
"Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các
ông nói rằng: 'Chúng tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn!"
Chương 10:
Vị Mục Tử nhân lành
(1) "Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn
chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai
đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và
chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã
cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết
tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng
không nhận biết tiếng người lạ". (6) Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó.
Nhưng họ không hiểu những điều người nói với họ.
(7) Vậy, Đức Giêsu lại nói: "Thật, tôi bảo thật các ông:
Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không theo họ. (9) Tôi là cửa Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. (11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên. (12) Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, (13) vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành.
Tôi biết các chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, (15) như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên. (16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.
Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không theo họ. (9) Tôi là cửa Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. (11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên. (12) Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, (13) vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành.
Tôi biết các chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, (15) như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên. (16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.
(19) Người Dothái lại chia rẽ nhau vì những lời đó. (20) Nhiều người
trong nhóm họ nói: "Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm
gì?" (21) Kẻ khác bảo: "Người bị quỷ ám đâu có nói được như vậy! Quỷ
có thể mở mắt cho người mù được sao?"
5. LỄ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ
Đức Giêsu xưng mình là Con Thiên Chúa
(22) Khi ấy, ở Giêrusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy
giờ là mùa đông. (23) Đức Giêsu đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang
Salômon. (24) Người Dothái vây quanh Đức Giêsu và nói: "Ông còn để lòng
trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói
công khai cho chúng tôi biết". (25) Đức Giêsu đáp:
"Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi
làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. (26) Nhưng các ông
không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. (27) Chiên của tôi thì
nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. (28) Tôi ban cho chúng sự
sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng
khỏi tay tôi. (29) Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và
không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. (30) Tôi và Chúa Cha là một".
(31) Người Dothái lại lấy đá để ném Đức Giêsu. (32) Người bảo họ:
"Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm;
vì việc nào mà các ông ném đá tôi?" (33) người Dothái đáp: "Chúng tôi
ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng:
ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa". (34) Đức Giêsu bảo
họ:
"Trong Lề Luật các ông, đã chẳng có chép lời này sao: 'Ta đã phán:
các người là những bậc thần thánh'? (35) Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên
Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị hủy bỏ,
(36) thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian,
làm sao các ông lại bảo tôi: ‘Ông nói phạm thượng!' vì tôi đã nói: 'Tôi là Con Thiên Chúa'? (37) Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. (38) Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin vào các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha".
làm sao các ông lại bảo tôi: ‘Ông nói phạm thượng!' vì tôi đã nói: 'Tôi là Con Thiên Chúa'? (37) Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. (38) Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin vào các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha".
(39) Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay
họ.
Đức Giêsu rút lui sang bên kia sông Giođan
(40) Đức Giêsu lại ra đi, sang bên kia sông Giođan, đến chỗ trước kia
ông Gioan đã làm phép rửa, và Người ở lại đó. (41) Nhiều người đến gặp Đức
Giêsu. Họ bảo nhau: "Ông Gioan đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi
điều ông ấy nói về người này đều đúng". (42) Ở đó, nhiều người đã tin vào
Đức Giêsu.
Chương 11:
Anh Ladarô sống lại
(1) Có một người bị đau nặng, tên là Ladarô, quê ở Bêtania, làng của hai
chị em cô Mácta và Maria. (2) Cô Maria là người sau này sẽ xức dầu thơm cho
Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh Ladarô, người bị đau nặng, là em của cô.
(3) Hai cô cho người đến nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, người Thầy thương
mến đang bị đau nặng". (4) Nghe vậy, Đức Giêsu bảo: "Bệnh này không
đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn
bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh".
(5) Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh
Ladarô.
(6) Tuy nhiên, sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Người còn lưu lại
thêm hai ngày tại nơi đang ở. (7) Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ:
"Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê!" (8) Các môn đệ nói:
"Thưa Thầy, mới đây người Dothái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến
đó sao?" (9) Đức Giêsu trả lời:
"Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không
vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. (10) Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã
vì không có ánh sáng nơi mình!"
(11) Người nói những lời này, sau đó Người lại bảo họ: "Ladarô, bạn
của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây". (12)
Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ
khỏe lại". (13) Đức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng
Người nói về giấc ngủ thường. (14) Bấy giờ Người mới nói rõ: "Ladarô đã
chết. (15) Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin.
Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy". (16) Ông Tôma, gọi là Điđymô, nói với
các bạn đồng môn: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với
Thầy!"
(17) Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn
ngày rồi. (18) Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. (19) Nhiều người
Dothái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời. (20)
Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở
nhà. (21) Cô Mácta nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em
con đã không chết. (22) Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng
Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy". (23) Đức Giêsu nói: "Em chị
sẽ sống lại!" (24) Cô Mácta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi
kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". (25) Đức Giêsu liền phán:
"Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù
đã chết, cũng sẽ được sống. (26) Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải
chết. Chị có tin thế không?"
(27) Cô Mácta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô,
Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian".
(28) Nói xong, cô đi gọi em là Maria, và nói nhỏ: "Thầy đến rồi,
Thầy gọi em đấy!" (29) Nghe vậy, cô Maria vội vàng đứng lên và đến với Đức
Giêsu. (30) Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mácta đã ra đón
Người. (31) Những người Dothái đang ở trong nhà với cô Maria để chia buồn, thấy
cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
(32) Khi đến gần Đức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới
chân và nói: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết".
(33) Thấy cô khóc, và những người Dothái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn
thức trong lòng và xao xuyến. (34) Người hỏi: "Các người để xác anh ấy ở
đâu?" Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem". (35) Đức
Giêsu liền khóc. (36) Người Dothái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương anh
Ladarô biết mấy!" (37) Có vài người trong nhóm họ nói: "Ông ta đã mở
mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết được ư?" (38) Đức
Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có
phiến đá đậy lại. (39) Đức Giêsu nói: "Đem phiến đá này đi". Cô Mácta
là chị người chết liền nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ
đã được bốn ngày". (40) Đức Giêsu bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị
rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" (41)
Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói:
"Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. (42) Phần con,
con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã
nói để họ tin là Cha đã sai con".
(43) Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh Ladarô, hãy ra khỏi
mồ!" (44) Người chết liền bước ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ
khăn liệm. Đức Giêsu bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy
đi".
Các thủ lãnh Dothái quyết định giết Đức Giêsu
(45) trong số những người Dothái đến thăm cô Maria và được chứng kiến
việc Đức Giêsu làm, có kẻ đã tin vào Người. (46) Nhưng lại có những người đi
gặp nhóm Pharisêu và kể cho họ những gì Đức Giêsu đã làm. (47) Vậy các thượng
tế và các người Pharisêu triệu tập Thượng hội Đồng và nói: "Chúng ta phải
làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. (48) Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp
tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá hủy cả nơi thánh
của ta lẫn dân tộc ta". (49) Một người trong Thượng Hội Đồng tên là
Caipha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: "Các ông không hiểu gì cả, (50)
các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay
cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt". (51) Điều đó, ông không tự mình
nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giêsu sắp
phải chết thay cho dân, (52) và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để
quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. (53) Từ ngày đó, họ
quyết định giết Đức Giêsu. (54) Vậy Đức Giêsu không đi lại công khai giữa người
Dothái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành
gọi là Épraim. Người ở lại đó với các môn đệ.
6. SỨ VỤ CÔNG KHAI CỦA ĐỨC GIÊSU KẾT THÚC
Lễ Vượt Qua gần đến
(55) Lễ Vuợt Qua của người Dothái đã gần. Từ miền quê, nhiều người lên
Giêrusalem trước lễ Vượt Qua để thanh tẩy mình. (56) Họ tìm Đức Giêsu và đứng
trong Đền Thờ bàn tán với nhau: "Các ông có nghĩ rằng ông ấy sẽ không lên
dự lễ chăng?" (57) Còn các thượng tế và người Pharisêu thì ra lệnh: ai
biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.
Chương 12:
Xức dầu thơm tại Bêtania
(1) Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đến làng Bêtania, nơi anh
Ladarô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. (2) Ở đó, người ta
dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giêsu; cô Mácta lo hầu bàn, còn anh Ladarô là một
trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. (3) Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam
tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực
mùi thơm. (4) Một trong các môn đệ của Đức Giêsu la Giuđa Ítcariốt, kẻ sẽ nộp
Người, liền nói: (5) "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà
cho người nghèo?" (6) Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng
vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta
bỏ vào quỹ chung. (7) Đức Giêsu nói: "Hãy để cô ấy yên hầu cô ấy giữ lại
dầu thơm này cho ngày mai táng Thầy. (8) Thật vậy, người nghèo thì anh em luôn
có bên cạnh; còn Thầy, anh em không có mãi đâu".
(9) Một đám đông người Dothái biết Đức Giêsu đang ở đó. Họ tuôn đến,
không phải chỉ vì Đức Giêsu, nhưng còn để nhìn thấy anh Ladarô, kẻ đã được
Người cho sống lại từ cõi chết. (10) các thượng tế mới quyết định giết cả anh
Ladarô nữa, (11) vì tại anh mà nhiều người Dothái đã bỏ họ và tin vào Đức
Giêsu.
Đức Giêsu vào Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia
(12) Hôm sau, dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức
Giêsu tới Giêrusalem, (13) họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò:
Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua
Ítraen!
(14) Đức Giêsu gặp một con lừa nhỏ, liền cỡi lên như có lời chép:
(15) Hỡi thiếu nữ Xion, đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi
trên lưng lừa con.
(16) Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy. Nhưng sau khi Đức
Giêsu được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép những điều đó về
Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy. (17) Vậy, đám đông dân
chúng làm chứng cho Đức Giêsu, họ là những người đã có mặt, khi Đức Giêsu gọi
anh Ladarô ra khỏi mồ và làm cho anh chỗi dậy từ cõi chết. (18) Sỡ dĩ dân chúng
đi đón Người, là vì họ nghe biết Người đã làm dấu lạ đó. (19) Bấy giờ người
Pharisêu bảo nhau: "Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì
cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!"
Đức Giêsu loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái
chết của Người
(20) Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy
người Hy Lạp. (21) Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và
xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu". (22) Ông
Philipphê đi nói với ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philipphê đến thưa với Đức
Giêsu. (23) Đức Giêsu trả lời:
"Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! (24) Thật, Thầy bảo thật anh
em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình;
còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quý mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại
được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở
đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng
người ấy". (27) "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì
đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.
(28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha". Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống:
"Ta đã tôn vinh Danh Ta Ta sẽ còn tôn vinh nữa!"
(29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: " Đó là tiếng
sấm!" Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta
đấy!" (30) Đức Giêsu đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi,
mà vì các người.
(31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh
thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên
khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi".
(33) Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
(34) Vậy, dân chúng thưa Người: "Chúng tôi đã học biết trong sách
Luật rằng: Đấng Kitô phải trường tồn mãi mãi. Thế sao ông lại nói: 'Con Người
phải được giương cao'? Con Người đó là ai?" (35) Đức Giêsu bảo họ:
"Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi,
bao lâu các ông còn có ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi
trong bóng tối, thì không biết mình đi đâu. (36) Bao lâu các ông còn có ánh
sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng".
Sau khi nói thế, Đức Giêsu rời nơi đó và lánh đi không cho họ thấy.
Kết luận:
Người Do thái cứng lòng không chịu tin
(37) Người đã làm ngần ấy dấu lạ trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin
vào Người. (38) Như vậy là ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia:
Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời chúng tôi rao giảng? Và quyền lực của Đức
Chúa đã được tỏ cho ai?
(39) Sở dĩ họ không thể tin là vì ngôn sứ Isaia còn nói:
(40) Thiên Chúa đã làm cho mắt chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá,
kẻo mắt chúng thấy và lòng chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng
cho lành!
(41) Ngôn sứ Isaia nói những lời đó, vì đã thấy vinh quang của Đức Giêsu,
và ông đã nói về Người.
(42) Tuy nhiên, ngay cả trong giới lãnh đạo Dothái cũng có nhiều người
đã tin vào Đức Giêsu. Nhưng, vì sợ nhóm Pharisêu, họ không dám xưng ra, kẻo bị
khai trừ khỏi hội đường. (43) Thật thế, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn
là vinh quang của Thiên Chúa. (44) Đức Giêsu lớn tiếng nói rằng:
"Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào
Đấng đã sai tôi; (45) ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. (46) Tôi là ánh sáng
đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. (47) Ai
nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người
ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. (48) Ai từ
chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời
tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. (49) Thật vậy, không phải tôi
tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi
phải nói gì, tuyên bố gì. (50) Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời
đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi".
III. GIỜ CỦA ĐỨC GIÊSU
LỄ VƯỠT QUA CỦA CHIÊN THIÊN CHÚA
1. BỮA ĂN CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC GIÊSU VÀ CÁC MÔN ĐỆ
Chương 13:
Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ
(1) Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ
thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở
thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.
(2) Trong bữa ăn tối, ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simon
Ítcariốt, ý định nộp Đức Giêsu. (3) Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó
mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên
Chúa, (4) nên bấy giờ Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn
mà thắt lưng. (5) Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn
đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
(6) Vậy, Người đến chỗ ông Simon Phêrô, ông liền thưa với Người:
"Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?" (7) Đức Giêsu trả lời:
"Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu".
(8) Ông Phêrô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu
đâu!" Đức Giêsu đáp: "Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng
được chung phần với Thầy". (9) Ông Simon Phêrô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy,
xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa". (10) Đức Giêsu
bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã
sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!" (11)
Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh
em đều sạch".
(12) Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và
nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? (13) Anh em gọi
Thầy là 'Thầy', là 'Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là
Chúa. (14) Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh
em cũng phải rửa chân cho nhau. (15) Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em
cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.
(16) Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được
sai đi không lớn người sai đi.
(17) Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì phúc cho
anh em! (18) Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính thầy biết những người
Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây:
Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.
(19) Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy
ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. (20) Thật, Thầy bảo
thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp
Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy".
Đức Giêsu loan báo Giuđa sẽ phản bội
(21) Đức Giêsu nói thế rồi, tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố:
"Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp
Thầy".
(22) Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. (23)
Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa,
đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. (24) Ông Simon Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo:
"Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?" (25) Ông này liền nghiêng mình vào
ngực Đức Giêsu và hỏi: "Lạy Thầy, ai vậy?" (26) Đức Giêsu trả lời:
"Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy". Rồi Người chấm một
miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Simon Ítcariốt. (27) Y vừa ăn xong miếng
bánh, Xatan liền nhập vào y. Đức Giêsu bảo y: "Anh làm gì thì làm mau
đi!" (28) Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao
Người nói với y như thế. (29) Vì Giuđa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng
rằng Đức Giêsu nói với y: "Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ",
hoặc bảo y bố thí cho người nghèo. (30) Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi
ra. Lúc đó, trời đã tối.
Những lời cáo biệt
(31) Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói:
"Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh
nơi Người, (32) Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ
tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (33) Hỡi anh
em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa
thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Dothái: 'Nơi tôi
đi, các người không thể đến được', bấy giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy.
(34) Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em. (35) Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là
môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau".
(36) Ông Simon Phêrô nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu
vậy?" Đức Giêsu trả lời: "Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến
được; nhưng sau này anh sẽ đi theo". (37) Ông Phêrô thưa: "Thưa Thầy,
sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì
Thầy!" (38) Đức Giêsu đáp: "Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo
thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.
Chương 14:
(1) Lòng anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.
(2) Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em
rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. (3) Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì
Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. (4)
Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi".
(5) Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết
Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?"
Đức Giêsu đáp:
"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến
với Chúa Cha mà không qua Thầy. (7) Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha
của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người".
(8) Ông Philípphê nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa
Cha, như thế là chúng con mãn nguyện".
(9) Đức Giêsu trả lời:
"Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết
Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con
thấy Chúa Cha'? (10) Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở
trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng
Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (11) Anh
em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không,
thì hãy tin vì chính các việc kia vậy. (12) Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin
vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm
những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. (13) Và bất cứ điều
gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi
người Con. (14) Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy
sẽ làm điều đó. (15) Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của
Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến
ở với anh em luôn mãi. (17) Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể
đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết
Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. (18) Thầy sẽ không để anh
em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. (19) Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không thấy
Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ
được sống. (20) Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở
trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. (21) Ai có và giữ các điều răn của Thầy,
người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy
yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy".
(22) Ông Giuđa, không phải Giuđa Ítcariốt, nói với Đức Giêsu: "Thưa
Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế
gian?" (23) Đức Giêsu đáp:
"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến
người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. (24) Ai không yêu
mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. và lời anh em nghe đây không phải là của
Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy. (25) Các điều đó, Thầy đã nói với anh
em, đang khi còn ở với anh em, (26) Nhưng khi Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa
Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh
em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. (27) Thầy để lại bình an cho anh
em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế
gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. (28) Anh em đã nghe
Thầy bảo: 'Thầy ra đi và đến cùng anh em'. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh
em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.
(29) Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi
sự ấy xảy ra. (30) Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa, bởi vì thủ lãnh
thế gian đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy. (31) Nhưng chuyện đó xảy
ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha
đã truyền cho Thầy. Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!"
Chương 15:
Cây nho thật
(1) "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. (2) Cành
nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào
sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. (3) Anh em
được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. (4) Hãy ở lại trong Thầy
như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái,
nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.
(5) Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người
ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì
được. (6) Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ
khô héo Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. (7) Nếu anh em ở lại
trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin. anh em
sẽ được như ý. (8) Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa
trái và trở thành môn đệ của Thầy. (9) Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy
cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. (10)
Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của
Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của
Người. (11) các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong
anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. (12) Đây là điều răn của
Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (13) Không ai
có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn
hữu. (14) Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy
truyền dạy. (15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết
việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe
được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết. (16) Không phải anh em đã chọn
Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh
được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin
cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. (17) Điều Thầy truyền
dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
Các môn đệ và thế gian
(18) Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy
trước. (19) Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì
thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách
anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. (20) Hãy nhớ lời Thầy đã nói
với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt
bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. (21)
Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh
Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy. (22) Giả như Thầy không đến và không nói
với họ, họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ không thể chữa tội được. (23) Ai
ghét Thầy, thì cũng ghét Cha của Thầy. (24) Giả như Thầy không làm giữa họ
những việc không một ai khác đã làm, họ đã không có tội. Nhưng nay họ thấy rồi
mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy. (25) Như thế là ứng nghiệm lời đã viết trong
Sách Luật của họ: Chúng ghét con vô cớ (26) Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng
mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát
xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. (27) Cả anh em nữa, anh em cũng
làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.
Chương 16:
(1) Thầy đã nói với anh em điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã. (2) Họ sẽ
khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ mà kẻ nào giết anh em cũng
tưởng đó là phụng thờ Thiên Chúa. (3) Họ sẽ làm như thế, bởi họ không biết Chúa
Cha, cũng chẳng biết Thầy. (4) Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để
khi đến giờ của họ, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi,
Đấng Bảo Trợ sẽ đến
"Những điều ấy Thầy đã không nói với anh em ngay từ đầu, vì lúc ấy
Thầy còn ở với anh em. (5) Bây giờ Thầy đến cùng Đấng đã sai Thầy, và không ai
trong anh em hỏi: Thầy đi đâu? (6) Nhưng vì Thầy nói ra các điều ấy, nên lòng
anh em tràn ngập nỗi ưu phiền. (7) Song, Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi
thì có lợi cho anh em; Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không
đến với anh em, nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em. (8) Và
Ngài đến, Ngài sẽ bắt lỗi thế gian: Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế
gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính, và việc xét xử. (9) Về tội: vì họ
không tin vào Ta. (10) Về sự công chính: vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em
không còn thấy Thầy nữa. (11) Về việc xét xử: vì thủ lãnh thế gian này đã bị
xét xử rồi. (12) Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em
không có sức chịu nổi. (13) Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em
tới sự thật toàn vẹn, Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng nghe gì, Người
sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ đến. (14) Người sẽ tôn
vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. (15) Mọi
sự Cha có, đều là của Thầy. Vì thế Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà
loan báo cho anh em".
Đức Giêsu loan báo Người sẽ mau trở lại
(16) "Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu
nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy"
(17) Bấy giờù vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giêsu hỏi nhau:
"Người muốn nói gì khi bảo chúng ta: 'Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông
thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy' và 'Thầy đến cùng Chúa Cha'
?" (18) Vậy các ông nói: "Ít lâu nữa' nghĩa là gì? Chúng ta không
hiểu Người nói gì!" (19) Đức Giêsu biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo
các ông:
"Anh em bàn luận với nhau về lời Thầy nói: 'Ít lâu nữa, anh em sẽ
không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy'. (20) Thật,
Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng.
Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. (21) Khi
sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì
không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con
người đã sinh ra trong thế gian. (22) Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn,
nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em,
không ai lấy mất được. (23) Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa.
Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban
cho anh em nhân danh Thầy. (24) Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh
Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn. (25) Thầy
đã dùng dụ ngôn mà nói những điều ấy với anh em. Sẽ đến giờ Thầy không còn dùng
dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha, không
còn úp mở. (26) Ngày ấy, anh em sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không nói với
anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. (27) Thật vậy, chính Chúa Cha
yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà
đến. (28) Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian
mà đến cùng Chúa Cha."
(29) Các môn đệ Người thưa: "Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không
còn dùng dụ ngôn nào nữa. (30) Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi
sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên
Chúa mà đến". (31) Đức Giêsu đáp:
"Bây giờ anh em tin à? (32) Này đến giờ---và giờ ấy đã đến rồi---
anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy
không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. (33) Thầy nói với anh em những điều
ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ gian nan khốn
khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian".
Chương 17:
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu
(1) Nói thế xong, Đức Giêsu ngước mắt lên trời và nói rằng:
"Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh
Cha, (2) theo quyền năng Cha đã ban cho Người trên mọi phàm nhân để Người ban
sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. (3) Mà sự sống đời
đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng
Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô. (4) Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất,
khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. (5) Vậy lạy Cha, giờ đây, xin
Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên
Cha trước khi có thế gian. (6) Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho
con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ
đã tuân giữ lời Cha. (7) Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con
đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận
những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã
sai con. (9) Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng
cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. (10) Tất cả những gì
của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con; và con được tôn
vinh nơi họ. (11) Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế
gian; phần con, con đến cùng Cha. Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ
trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta. (12) Khi còn
ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh
giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm
lời Kinh Thánh. (13) Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc
còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. (14) Con đã truyền
lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian,
cũng như con đây không thuộc về thế gian. (15) Con không xin Cha cất họ khỏi
thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. (16) Họ không thuộc về thế
gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. (17) Xin Cha lấy sự thật mà
thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. (18) Như Cha đã sai con đến thế gian, thì
con cũng sai họ đến thế gian. (19) Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để
nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến. (20) Con không chỉ cầu nguyện cho những
người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, (21) để tất cả nên
một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng
ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. (22) Phần con, con đã ban cho
họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một:
(23) Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy,
thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu
thương con. (24) Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban
cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà
Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.
(25) Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã
biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. (26) Con đã cho
họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở
trong họ, và con cũng ở trong họ nữa".
2. CUỘC THƯƠNG KHÓ
Chương 18:
Đức Giêsu bị bắt giữ
(1) Sau khi nói những lời đó, Đức Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang
bên kia suối Kítrôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với môn đệ đi vào. (2)
Giuđa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn
đệ. (3) Vậy, Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng
tế và nhóm Pharisêu; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. (4) Đức Giêsu biết mọi
việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: "Các anh tìm ai?" (5)
Họ đáp: "Tìm ông Giêsu Nadarét". Người nói: "Chính tôi
đây". Giuđa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. (6) Khi Người vừa nói:
"Chính tôi đây", thì họ lùi lại và ngã xuống đất. (7) Người lại hỏi
một lần nữa: "Các anh tìm ai?" Họ đáp: "Tìm ông Giêsu
Nadarét". (8) Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây.
Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi". (9) Thế
là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói:
"Những người Cha đã ban cho
con, con không để mất một ai".
(10) Ông Simon Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy
tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Mankhô.
(11) Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén đắng Chúa Cha
đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?"
Đức Giêsu bị điệu ra trước các ông Khanna và Caipha
Phêrô chối Thầy
(12) Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người
Dothái bắt Đức Giêsu và trói Người lại. (13) Trước tiên, họ điệu Đức Giêsu đến
ông Khanna là nhạc phụ ông Caipha. Ông Caipha làm thượng tế năm đó. (14) Chính
ông này đã đề nghị với người Dothái là nên để một người chết thay cho dân thì
hơn.
(15) Ông Simon Phêrô và một môn đệ khác đi theo Đức Giêsu. Người môn đệ
này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giêsu vào sân trong của tư dinh vị
thượng tế. (16) Còn ông Phêrô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia
quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. (17)
Người tớ gái giữ cổng nói với Phêrô: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn
đệ của người ấy sao?" Ông liền đáp: "Đâu phải". (18) Vì trời
lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phêrô cũng đứng
sưởi với họ. (19) Vị thượng tế tra hỏi Đức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của
Người. (20) Đức Giêsu trả lời: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ;
tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do thái tụ
họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. (21) Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã
nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì". (22)
Đức Giêsu vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người
mà nói: "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?" (23) Đức Giêsu đáp:
"Nếu tôi nói sai, anh chứng
minh xem sai ở chổ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?" (24) Ông Khanna cho giải Người đến thượng tế Caipha, Người vẫn bị trói.
(25) Còn ông Simon Phêrô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông:
"Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?" Ông liền
chối: "Đâu phải". (26) Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ
với người bị ông Phêrô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: "Tôi đã chẳng thấy bác
ở trong vườn với ông ấy sao?" (27) Một lần nữa ông Phêrô lại chối, và ngay
lúc ấy gà liền gáy.
Đức Giêsu bị điệu ra trước tổng trấn Philatô
(28) Vậy, người Dothái điệu Đức Giêsu từ nhà ông Caipha đến dinh tổng
trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn
lễ Vượt Qua được. (29) Vì thế, tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi:
"Các người tố cáo người này về tội gì?" (30) Họ đáp: "Nếu ông
này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan". (31) Ông
Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các
người". Người Dothái đáp: "Chúng tôi không có quyền xử tử ai
cả". (32) Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải
chết cách nào.
(33) Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người:
"Ông có phải là vua dân Dothái không?" (34) Đức Giêsu đáp: "Ngài
tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?" (35) Ông
Philatô trả lời: "Tôi là người Dothái sao? Chính dân của ông và các thượng
tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?" (36) Đức Giêsu trả lời:
"Nước tôi không thuộc về thế
gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu
không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn
này".
Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?" Đức Giêsu đáp:
"Chính ngài nói rằng tôi là
vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự
thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
(38) Ông Philatô nói với Người: "Sự thật là gì?" Nói thế rồi,
ông lại ra gặp người Dothái và bảo họ: "Phần ta, ta không tìm thấy lý do
nào để kết tội ông ấy. (39) Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta
thường tha cho một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua
dân Dothái cho các người không?" Họ lại la lên rằng: "Đừng tha nó,
nhưng xin tha Baraba!" Mà Baraba là một tên cướp.
Chương 19:
(1) Bấy giờ ông Philatô truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Người. (2)
Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người
một áo choàng đỏ. (3) Họ đến gần và nói: "Kính chào Vua dân Dothái!",
rồi vả vào mặt Người.
(4) Ông Philatô lại ra ngoài và nói với người Dothái: "Đây ta dẫn
ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào
để kết tội ông ấy". (5) Vậy, Đức Giêsu bước ra ngoài, đầu đội vương miện
bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Philatô nói với họ: "Đây là
người!" (6) Khi vừa thấy Đức Giêsu, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền
kêu lên rằng: "Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô bảo
họ: "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta
không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy". (7) Người Dothái đáp lại:
"Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã
xưng mình là Con Thiên Chúa".
(8) Nghe lời đó, ông Philatô càng sợ hơn nữa. (9) Ông lại trở vào dinh
và nói với Đức Giêsu: "Ông từ đâu mà đến?" Nhưng Đức Giêsu không trả
lời. (10) Ông Philatô mới nói với Người: "Ông không trả lời tôi ư? Ông
không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá
sao?" (11) Đức Giêsu đáp lại: "Ngài không có quyền gì đối với tôi,
nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn".
Đức Giêsu bị kết án tử hình
(12) Từ đó, ông Philatô tìm cách tha Người. Nhưng dân Dothái kêu lên
rằng: "Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xêda. Ai xưng mình là
vua, thì chống lại Xêda". (13) Khi nghe thấy thế, ông Philatô truyền dẫn
Đức Giêsu ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên tòa, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng
Hípri là Gápbatha. (14) Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ
trưa. Ông Philatô nói với người Dothái: "Đây là vua các người!" (15)
Họ liền la lớn: "Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!" Ông
Philatô nói với họ: "Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?"
Các thượng tế đáp: "Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xêda". (16)
Bấy giờ ông Philatô trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
Đức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá
Vậy họ điệu Đức Giêsu đi. (17) Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến
nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hípri là Gôngôtha; (18) tại đó, họ đóng đinh Người vào
thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn
Đức Giêsu thì ở giữa. (19) Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập
giá; bảng đó có ghi: "Giêsu Nadarét, Vua dân Dothái". (20) trong dân
Dothái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giêsu bị đóng đinh là một
địa điểm ỏ gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng Hípri, Latinh và Hylạp.
(21) Các thượng tế của người Dothái nói với Philatô: "Xin ngài đừng viết:
"Vua dân Dothái" nhưng viết: "Tên này đã nói: Ta là Vua dân
Dothái". "(22) Ông Philatô trả lời: "Ta viết sao, cứ để
vậy!"
Lính tráng chia nhau áo xống của Đức Giêsu
(23) Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của
Người chia làm bốn phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này
không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. (24) Vậy họ nói với nhau:
"Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được". Thế là ứng nghiệm lời Kinh
Thánh:
Áo xống tôi, chúng đem chia chác, còn áo dài, cũng bắt thăm luôn.
Đó là những điều lính tráng đã làm.
Đức Giêsu và thân mẫu của Người
(25) Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân
mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. (26) Khi thấy thân mẫu
và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng:
"Thưa Bà, đây là con của Bà". (27) Rồi Người nói với môn đệ:
"Đây là mẹ của anh". Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
Đức Giêsu chết trên thập giá
(28) Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời
Kinh Thánh, Người nói:
"Tôi khát!"
(29) Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy
giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. (30) Nhắp xong,
Đức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất!" Rồi Người gục đầu xuống và trao
Thần Khí.
Đức Giêsu bị lưỡi đòng đâm thâu
(31) Hôm đó là ngày áp lễ, người Dothái không muốn để xác chết trên thập
giá trong ngày sabát, mà ngày sabát đó lại là ngày lễ lớn. Nên họ xin ông
Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. (32)
Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng
đinh với Đức Giêsu. (33) Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không
đánh giập ống chân Người. (34) Nhưng một người lính lấy giáo đâm cạnh sườn
Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. (35) Người xem thấy việc này đã làm
chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để
cho cả anh em nữa cũng tin. (36) Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh
Thánh:
Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.
(37) Lại có lời Kinh Thánh khác:
Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
Đức Giêsu được mai táng
(38) Sau đó, ông Giôxép, người Arimathê, xin ông Philatô cho phép hạ thi
hài Đức Giêsu xuống. Ông Giôxép này là một môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách
kín đáo, vì sợ người Dothái. Ông Philatô chấp thuận. Vậy, ông Giôxép đến hạ thi
hài Người xuống. (39) Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức
Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương.
(40) Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà cuốn, theo
tục lệ chôn cất của người Dothái. (41) Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa
vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. (42) Vì hôm ấy
là ngày áp lễ của người Dothái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng
Đức Giêsu ở đó.
3. NGÀY PHỤC SINH
Chương 20:
Ngôi mộ trống
(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria
Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp ông
Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đem
Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?.
(3) Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy.
Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống
và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Simon Phêrô theo
sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và
khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại,
xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi
vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: theo
Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chổi dậy từ cõi chết. (10) Sau đó, các môn đệ lại
trở về nhà.
Đức Giêsu hiện ra với bà Maria Mácđala
(11) Bà Maria đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi
xuống nhìn vào trong mộ, (12) thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi
đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. (13) Thiên
thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc?" Bà thưa: "Người ta đã lấy
mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!" (14) Nói xong, bà
quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. (15) Đức
Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?" Bà Maria tưởng là
người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói
cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về". (16) Đức Giêsu gọi
bà: "Maria!" Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri:
"Rápbuni!" (nghĩa là 'lạy Thầy'). (17) Đức Giêsu bảo: "Thôi,
đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy
và bảo họ: 'Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên
Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em'". (18) Bà Maria Mácđala đi
báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Người
đã nói với bà.
Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các
cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông
và nói: "Chúc anh em được bình an!" (20) Nói xong, Người cho các ông
xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói
với các ông:
"Chúc anh em được bình an!
như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em".
(22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo:
"Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì
người ấy bị cầm giữ".
(24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô,
không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. (25) các môn đệ khác nói với ông:
"Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tôma đáp: "Nêu tôi không thấy
dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn
tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin". (26) Tám ngày sau, các môn đệ
Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng
kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình
an" (27) Rồi Người bảo Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem
tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy
tin". (28) Ông Tôma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con!" (29) Đức Giêsu bảo:
"Vì đã thấy Thầy, nên anh
tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
4. KẾT KUẬN THỨ NHẤT
(30) Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng
những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được
chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để
anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
IV. ĐOẠN CUỐI
Chương 21:
Đức Giêsu hiện ra ở bờ Biển Hồ Tibêria
(1) Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria.
Người tỏ mình ra như thế này. (2) Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông
Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác
nữa, tất cả đang ở với nhau. (3) Ông Simon nói với các ông: "Tôi đi đánh
cá đây". Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh". Rồi mọi người
ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
(4) Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ
không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. (5) Người nói với các ông: "Này các
chú, không có gì ăn ư?" Các ông trả lời: "Thưa không". (6) Người
bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được
cá". Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy
những cá. (7) Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với Phêrô: "Chúa
đó!" Vừa nghe nói "Chúa đó!", ông Simon Phêrô vội khoác áo vào
vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. (8) Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo
theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm
thước.
(9) Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên,
và có cả bánh nữa. (10) Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới
đây!" (11) Ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những
cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị
rách. (12) Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn!" Không ai trong các môn
đệ dám hỏi "ông là ai?", vì các ông biết rằng đó là Chúa. (13) Đức
Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. (14)
Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi chỗi dậy từ cõi
chết.
(15) Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: "Này
anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" Ông
đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Đức Giêsu nói với
ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy". (16) Người lại hỏi: "Này
anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy
có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của
Thầy". (17) Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh
có yêu mến Thầy không?" Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh
có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự;
Thầy biết con yêu mến Thầy". Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc chiên của
Thầy.
(18) Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt
lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già,
anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn".
anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn".
(19) Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh
Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy".
(20) Ông Phêrô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đi
theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu trong bữa ăn tối
và hỏi: "Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?" (21) Vậy khi thấy người đó,
ông Phêrô nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, còn anh này thì sao?" (22)
Đức Giêsu đáp: "Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến,
thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy". (23) Do đó mới có tiếng đồn
giữa anh em là môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Đức Giêsu đã không nói với Phêrô
là: "Anh ấy sẽ không chết", mà chỉ nói: "Giả như Thây muốn anh
ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?"
Kết luận:
(24) Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng
tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.
(25) Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều
một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.
=====//////=====
Lm Giuse Phạm Thanh Minh