GIÁO LÝ HỘI
THÁNH CÔNG GIÁO
LỚP GIÁO LÝ DỰ TÒNG
PHẦN MỞ ĐẦU
NHỮNG NỀN TẢNG ĐỨC TIN CÔNG GIÁO
BÀI 1: CON NGƯỜI CÓ
KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA
I/ LỜI CHÚA
- “Những
gì người
ta có thể
biết
về
Thiên Chúa, thì thật
là hiển
nhiên trước
mắt
họ,
vì chính Thiên Chúa đã
cho họ
thấy
rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi
Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên
Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn của con người có thể nhìn thấy được qua những
công trình của Người” (Rm 1,19-20).
- “Trời
xanh tường
thuật
vinh quang Thiên
Chúa, không trung loan báo việc Tay Người làm ” (Tv 18a)
II/ TRÌNH BÀY
NỘI DUNG GIÁO LÝ
Con người có khả
năng đón nhận Thiên Chúa
-
Người Kitô hữu xác tín rằng chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới gặp được chân lý trọn vẹn, đồng thời đạt đến hạnh phúc đích thực mà nhân
loại không ngừng tìm kiếm.
- Sở dĩ như vậy, là vì con người đến từ Thiên Chúa và sẽ về với Ngài. Đến từ Thiên Chúa nên con người mang nỗi khát khao Chúa tận đáy sâu tâm hồn và chỉ nơi Ngài mới có hạnh phúc, bình an sâu thẳm, như Thánh Augustinô đã
kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con
và lòng con khắc khoải cho tới khi tâm hồn con được an nghỉ trong Chúa”.
Thánh nhân đã bộc lộ tâm tư khắc khoải của mình là mong mỏi gặp Chúa để được an
thỏa. Hẳn đây cũng là tâm trạng của nhiều người chúng ta: Khao khát tìm gặp
Chúa.
Loài người dựa
vào đâu để nhận biết Thiên Chúa?
a. Dựa vào vũ trụ thiên nhiên
- Chiêm ngắm trời đất với trật tự lạ lùng của tinh
tú, với muôn vật kỳ diệu của đất trời, con người dùng lý trí đặt vấn đề là phải có Đấng sáng tạo, vận hành điều khiển vũ trụ. Ta gọi cách nhận biết
này là cách nhận biết theo luật nhân quả: nhìn hậu quả biết nguyên nhân. Qua đó
con người có thể nhận biết Thiên Chúa như nguyên thủy và cùng đích của vũ trụ
(x.Rm 1,19-20). “Hãy đưa mắt lên cao mà nhìn: Ai đã sáng tạo những vật đó? Đấng
tung ra toàn bộ đạo binh các tinh tú. Người gọi đích danh từng ngôi một. Khiến
không một ngôi nào vắng mặt” (Is 40,26).
b. Dựa vào những khát vọng chính đáng trong lòng người.
-
Từ đáy lòng, con người cảm thấy mình luôn khao khát
điều chân thật, điều tốt, điều đẹp, gọi là Chân – Thiện – Mỹ. Những khát vọng
ấy khiến người ta suy nghĩ rằng: phải có Đấng là cội nguồn sự thật, là căn
nguyên sự tốt lành và là khuôn mẫu vẻ đẹp; vì có như thế mới giải thích được
tại sao loài người có những khát vọng đó mới lấp đầy những ước vọng tự nhiên
rất chính đáng của loài người.
c. Dựa vào hiện tượng Tôn giáo trong lịch sử nhân loại.
-
Khi nhìn vào hiện tượng Tôn giáo trong lịch sử nhân loại, con người nhận ra rằng: ngoài thế giới trần tục, còn có thế giới thần linh, ngoài
thế giới hữu hình, còn thế giới vô hình. Hiện tượng này mang tính phổ quát đến
nỗi có thể nói tâm tình Tôn giáo đã ăn sâu vào bản tính và cuộc sống của con
người. Quả thật “Thiên Chúa không ở xa mỗi người chúng ta, vì chưng trong Ngài,
ta sống, ta chuyển động, ta hiện hữu” (Cv 17, 28).
-
Riêng đạo Công Giáo giúp loài người tìm kiếm Thiên Chúa mà ta cho là bằng con đường chắc chắn và hiệu quả.
+ Chắc chắn:
vì đạo Công Giáo do chính Thiên Chúa thiết lập, chính Thiên
Chúa sai Đức Giêsu, Con của Ngài xuống trần gian, tỏ cho loài người con đường
phải đi để gặp được Ngài (gọi là Đạo Mạc Khải)
+ Hiệu quả:
vì cùng với việc vạch đường chỉ lối, Thiên Chúa còn cho
loài người nhiều trợ lực, giúp trí khôn nhận định sáng suốt, ý chí kiên trì và
tâm hồn phấn khởi trên đường tìm gặp Chúa.
III/ BÀI HỌC
1/ H: Con người được Thiên Chúa dựng nên để làm gì?
T: Con người được Thiên Chúa dựng nên để sống hạnh
phúc với Ngài.
2/ H: Thiên Chúa
đã làm gì để con người được sống hạnh phúc với Ngài?
T:
Thiên Chúa đã khắc ghi vào tâm hồn con người niềm khao khát Thiên Chúa và ban
cho họ khả năng nhận biết, yêu mến và hiệp thông với Ngài.
3/ H: Con người có thể nhận biết Thiên Chúa bằng cách
nào?
T:
Con người có thể nhận biết Thiên Chúa bằng những cách này:
-
Một là nhìn xem vẻ đẹp kỳ diệu và trật tự lạ
lùng trong vũ trụ mà nhận ra Đấng dựng nên trời đất muôn vật.
-
Hai là nhờ tiếng lương tâm, sự tự do và khát
vọng hạnh phúc đời đời, mà nhận ra Đấng là nguồn mọi điều thiện hảo.
-
Ba là nhìn vào hiện tượng Tôn giáo trong lịch
sử nhân loại, con người có thể nói tâm tình Tôn Giáo đã ăn sâu vào bản tính và
cuộc sống của con người:“Thiên Chúa không còn ở xa mỗi người chúng ta… Trong
Ngài, ta sống, ta chuyển động, ta hiện hữu”. (Cv 17-28) (3)
4/ H: Con người
có thể nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa không?
T: Với khả năng
tự nhiên, con người không thể nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa, mà phải nhờ vào
sự mạc khải của Ngài.
5/ H: Chúng ta
có thể nói về Thiên Chúa thế nào?
T: Chúng ta có thể nói về Thiên Chúa
dựa trên sự hoàn hảo của muôn loài, nhưng vì khả năng và ngôn ngữ ccon người có
giới hạn, nên chúng ta không thể diễn tả đầy đủ về Ngài.
¶
¶¶
BÀI 2: THIÊN CHÚA ĐẾN
GẶP CON NGƯỜI
- Mạc khải của Thiên Chúa-
I/ LỜI CHÚA
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa phán dạy cha ông chúng ta
qua các ngôn sứ, nhưng bây giờ vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy
chúng ta qua Thánh Tử”
(Dt 1,1-2)
(Dt 1,1-2)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
1/ Những dòng
trên đây mọi Kitô hữu điều tin:
+ Thiên Chúa đã ngỏ
lời với loài người chúng ta.
+ Dùng một kiểu nói chuyên
môn hơn: Thiên Chúa đã Mạc khải, đã “vén một bức màn”
cho chúng ta được biết về chính Ngài và ý định cứu độ của Ngài.
- Những điểm này tâm
trí con người tự nhiên không thể biết được, nên Thiên Chúa vì lòng thương đã
muốn tỏ cho chúng ta biết.
- Mạc khải của Thiên
Chúa phân biệt hai giai đoạn, mà thư Do Thái trên đây gọi là: thuở xưa và bây
giờ.
Thuở xưa:
là thời trước khi Chúa Giêsu sinh ra, Thiên Chúa đã dùng các tổ phụ, là những
người lập nên dân Thiên Chúa, đặc biệt là Abraham, Môsê và các Ngôn sứ, nhân
danh Ngài dạy dỗ và và công bố mệnh lệnh của Ngài cho dân Israel, dân riêng của
Ngài, về ý muốn của Ngài và về Đấng Cứu Thế mà Ngài sẽ sai đến trần gian: đó là
thời Cựu ước.
Bây giờ:
tức là từ khi Chúa Giêsu đến trong trần gian, thì tất cả những gì Thiên Chúa
muốn nói với chúng ta, Ngài đều nói qua Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô; các
Thánh Tông đồ có nói gì thì cũng là do lệnh của Đức Giêsu và về Đức Giêsu: đó
là thời Tân ước.
2/ Lời Thiên
Chúa được ghi chép lại như thế nào?
- Những điều chính
yếu trong những lời Thiên Chúa nói với loài người đã được ghi chép lại trong
các sách của bộ Kinh Thánh.
- Người Kitô hữu nhìn
nhận rằng các sách này được
linh hứng, nghĩa là: các tác giả của sách đó đã được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn để biết dùng tài năng và sức lực của mình mà viết những gì Thiên Chúa muốn cho viết, và chỉ viết những điều Ngài muốn.
linh hứng, nghĩa là: các tác giả của sách đó đã được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn để biết dùng tài năng và sức lực của mình mà viết những gì Thiên Chúa muốn cho viết, và chỉ viết những điều Ngài muốn.
- Như vậy, có thể
nói: Thiên Chúa là tác giả chính, còn các vị đó là tác giả phụ của các sách
Kinh Thánh.
- Mặt khác, bởi vì
các sách này được linh hứng, nên chứa đựng chân lý cứu độ,
nghĩa là: dạy ta cách chắc chắn, không sai lầm, những gì ta cần biết để sống
đầy đủ ý nghĩa làm người và đạt tới hạnh phúc siêu nhiên.
3/ Kinh Thánh
gồm những phần chính nào?
- Kinh Thánh không
phải là một cuốn sách, nhưng là cả một bộ gồm nhiều sách khác nhau. Kinh Thánh
gồm hai phần chính: Cựu ước và Tân ước.
+ Cựu ước: gồm 46
cuốn, là những sách Thánh nói về lời hứa cứu chuộc của Thiên Chúa và việc chuẩn
bị cho Đấng Cứu Thế ra đời.
+ Tân ước: gồm 27
cuốn là những sách Thánh nói về cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Giêsu, cũng
như đời sống đức tin của Hội Thánh thuở ban đầu, trong đó quan trọng nhất là
bốn sách Tin Mừng.
4/ Nội dung
chính yếu của Kinh Thánh
- Kinh Thánh ghi lại
kế hoạch cứu độ do Thiên Chúa có sáng kiến, loan báo và thực hiện trong lịch sử
loài người. Đó chính là lịch sử của Đấng Cứu Thế, vì Ngài là trung tâm và tột
đỉnh của Kinh Thánh: Trong Cựu ước Ngài được các ngôn sứ loan báo, và trong Tân
Ước, Ngài được các Tông Đồ minh chứng.
III/ BÀI HỌC
6/ H: Mạc Khải
là gì?
T: Mạc Khải là việc Thiên Chúa tỏ
cho con người biết các mầu nhiệm của Người, mạc khải của Thiên Chúa được chứa
đựng trong Thánh kinh và Thánh Truyền.
7/ H: Thiên Chúa
mạc khải cho chúng ta bằng cách nào?
T: Thiên Chúa dùng lời nói và hành động mà tỏ mình
cho chúng ta, qua từng giai đoạn lịch sử cứu độ.
8/ H: Vì sao
Chúa Giêsu Kitô là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa?
T: Vì Đức Giêsu Kitô là Con Thiên
Chúa làm người, chính Ngài là Lời duy nhất và hoàn hảo của Chúa Cha
9/ H: Kinh Thánh
là gì?
T: Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa nói
với chúng ta, được ghi chép dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, Kinh Thánh
gồm 73 cuốn, có 2 phần chính: Cựu Ước có 46 cuốn và Tân Ước có 27 cuốn.
10/ H: Ta phải
đọc Kinh Thánh thế nào?
T: Ta phải đọc Thánh Kinh trong đức
tin với tâm tình khiêm tốn đơn sơ theo sự hướng dẫn của Hội Thánh, trong ước
muốn được dạy dỗ và sẵn sàng thực hiện điều Chúa dạy.
11/ H: Thánh
Truyền là gì?
T: Thánh Truyền là mạc khải của
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã trao phó cho các Tông Đồ và các Đấng kế vị để gìn
giữ, trình bày và rao giảng cách trung thành.
¶
¶¶
BÀI 3: CON NGƯỜI ĐÁP
LỜI THIÊN CHÚA
-Đức Tin-
I/ LỜI CHÚA
“Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những
điều chúng ta không thấy” (Dt 11,1)
“Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người, thì đức tin là
con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng
nói của Thiên Chúa” ( Thánh Âu- tinh)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
1/ Tin là đáp
Lời Thiên Chúa:
-
“Với tình thương chan chứa, Thiên Chúa vô hình đã ngỏ lời với loài người như
với bạn hữu. Ngài đối thoại với họ để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với
Ngài” ( MK 2). Tin chính là đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Vì thế Thánh
Phaolô đã nói về sự vâng phục của Đức Tin.
-
Trong cuộc sống hằng ngày, mối quan hệ giữa con người với con người cũng được
dệt bằng sự tin tưởng lẫn nhau, nếu không thì cuộc sống rất nặng nề vì ngờ vực
và nghi kỵ.
-
Sâu xa hơn nữa, trong tình bạn và trong cuộc sống gia đình, người ta còn đến
với nhau bằng niềm tin sâu xa hơn, đó là niềm tin bao hàm cả tình yêu, tín
nhiệm và trung tín, niềm tin khiến con người cởi mở cõi lòng cho nhau và nâng
đỡ nhau trong mọi nỗi niềm cuộc sống.
-
Như thế, niềm tin đã là một yếu tố căn bản và cần thiết cho cuộc sống. Thực tế
đó giúp ta hiểu niềm tin vào Thiên Chúa không phải là điều chi xa lạ và trừu
tượng. Tuy nhiên, niềm tin vào Thiên Chúa lại mang một nội dung rất khác, vì
chỉ một mình Thiên Chúa là chân lý ban sự sống. Vì thế, niềm tin vào Thiên Chúa
phải là sự gắn bó toàn diện và tuyệt đối: lý trí, tâm hồn và cuộc sống. Chỉ một
mình Thiên Chúa mới đòi hỏi nơi chúng ta niềm tin như thế.
-
Tổ phụ Abraham và Mẹ Maria là những mẫu mực của Đức tin. Vì tin, tổ phụ Abraham
đã vâng lời: “ra đi mà không biết mình đi
đâu” (Dt 11,8). Vì tin, Mẹ Maria đã thưa với sứ thần: “vâng! tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ
thần nói” (Lc 1,38). Vì “đối với
Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
-
Các Ngài đã trao phó trọn vẹn cuộc đời cho Thiên Chúa và trở thành những người
cộng tác tích cực vào chương trình của Thiên Chúa.
2/ Những đặc
tính của Đức Tin Kitô giáo
-
Đức tin trước hết là ân sủng Chúa ban tặng (Mt 16,17). Chính Ngài đi bước trước
và trợ giúp từ bên trong của Chúa Thánh Thần: “Ngài thúc đẩy và quy hướng con
tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và làm cho con người cảm thấy dịu ngọt
khi đón nhận và tìm theo chân lý” (MK 5).
-
Nếu đức tin là một hồng ân thì đồng thời, Tin cũng là hành vi của con người.
Đức tin không phủ nhận lý trí, nhưng vượt trên lý trí. Nền tảng đức tin là Lời
của Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối và là Đấng toàn tri. Lý trí con người có
giới hạn nên nhiều khi thấy khó hiểu.
- Đồng thời Tin là hành vi tự do vì Thiên Chúa tôn
trọng phẩm giá con người do chính Ngài tạo nên, con người ấy phải được tự do và
được hướng dẫn theo chính phán đoán của mình. (TD 11).
-
Trong cuộc sống trần thế, Đức Giêsu mời gọi mọi người hoán cải và tin vào Tin
Mừng, nhưng Ngài không bao giờ tạo áp lực để cưỡng ép họ.
-
Đức tin là sự gắn bó toàn diện con người với Thiên Chúa, nên không thể chỉ
ngưng lại ở những hiểu biết xuông mà phải dẫn đến hành động. Chính vì thế mà
Thánh Gioan nói đến việc “thực thi chân lý”
và Thánh Giacôbê gọi “Đức tin không có
hành động thì quả là Đức tin chết” (Gc 2,17).
-
Người tín hữu luôn luôn tự cảnh giác vì lời Chúa nói: “không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy
Chúa! Là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy
là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
III/ BÀI HỌC
12/ H: Con người đáp lại mạc khải của Thiên Chúa thế nào?
T: Con người đáp lại mạc khải của
Thiên Chúa bằng thái độ vâng phục của đức tin.
13/ H: Vâng phục
của đức tin là gì?
T: Vâng phục của đức tin là:
+ Gắn bó bản thân với Thiên Chúa.
+
Tự nguyện đón nhận tất cả những chân lý mạc khải
+ Đồng thời, để Thiên Chúa làm chủ và hướng dẫn đời
ta.
14/ H: Có những
mẫu gương sáng chói nào về sự vâng phục đức tin?
T: Có hai mẫu gương sáng chói cho ta
noi theo là tổ phụ Abraham và Đức Trinh Nữ Maria.
15/ H: Đức tin
có những đặc điểm nào?
T: Đức tin vừa là hồng ân siêu nhiên
của Thiên Chúa ban, vừa là hành vi con người có hiểu biết và tự do đáp ứng.
16/ H: Đức tin
có tính cách cá nhân hay cộng đoàn?
T: Đức tin vừa
có tính cách cá nhân vừa có tính cách cộng đoàn.
17/ H: Vì sao
đức tin có tính cách cá nhân?
T: Vì đức tin là lời đáp trả tự do
của mỗi người đối với Thiên Chúa là Đấng mạc khải.
18/ H: Vì sao
đức tin có tính cách cộng đoàn?
T: Vì ta đón nhận và sống đức tin
nhờ cộng đoàn dân Chúa. Hơn nữa, ta còn có nhiệm vụ thông truyền đức tin cho
mọi người.
19/ H: Đức tin
có cần thiết không?
T: Đức tin rất cần thiết để được cứu
độ. Vì chính Chúa Giêsu đã dạy : “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc
16,16).
20/ H: Những
điều phải tin được tóm lược trong kinh nào?
T: Những điều
phải tin được tóm lược trong Kinh Tin Kính.
21/ H: Tin vào
Thiên Chúa là thế nào?
T: Tin vào Thiên Chúa là để cho
Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ đời ta. Ta mau mắn vâng lời Người và vững lòng chờ
đợi mọi điều Người hứa cho ta.
¶
¶¶
PHẦN THỨ NHẤT
TUYÊN XƯNG ĐỨC
TIN
BÀI 4: THIÊN CHÚA DUY NHẤT
I/ LỜI CHÚA
“Nghe
đây, hỡi Israel : Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Dnl
6,4-5)
“
Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta thì các ngươi sẽ được cứu độ, vì
Ta là Thiên Chúa chẳng có Chúa nào khác. Trước mặt Ta, mọi người sẽ quì gối và
mở miệng thề rằng: chỉ một mình Đức Chúa mới cứu độ và làm cho mạnh sức” ( Is
45, 22-24)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Niềm tin vào Thiên
Chúa duy nhất bắt đầu trong Cựu Ước:
-
Khi Thiên Chúa kêu gọi và chọn It-ra-en làm dân riêng và thiết lập giao ước,
Người tỏ cho dân thấy,: Người là Thiên Chúa duy nhất, ngoài ra không có Thiên
Chúa nào khác và phải phụng thờ một mình Người. (Đnl 4, 39)
-
Trong giao ước Xinai ( Mười điều răn) điều răn thứ nhất thật rõ ràng: “Ngươi
không được có thần nào khác nghịch với Ta” (Xh 20,3)
-
Mỗi lần It-ra-en đi theo thần nào khác, các ngôn sứ đều nhắc nhở và kêu gọi họ
trở về với Chúa là Thiên Chúa duy nhất (x.Is 45, 22-24)
-
Kinh Shema mà người Do Thái tụng niệm hằng ngày: “ Nghe
đây, hỡi It-ra-en! Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Thiên Chúa duy nhất. Hãy
yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em”
( Đnl 6, 4-5)
-
Niềm tin của Cựu ước vào Thiên Chúa duy nhất đã được chính Đức Giêsu xác nhận
khi dạy phải yêu mến Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất “Hết lòng hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực
ngươi” ( Mc 12,30)
-
Tân ước cũng tái xác nhận niềm tin này khi phải đối đầu với đa thần giáo của
ngoại giáo.
III/ BÀI HỌC
22/ H: Đức tin
công giáo dạy ta sự gì?
T:
Dạy ta tin chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và ngoài Người ra, không có Thiên
Chúa nào khác và ta phải thờ phượng một mình Người mà thôi.
23/ H: Thiên
Chúa có tỏ cho ta biết tên của Người không?
T: Thiên Chúa đã tỏ cho ta biết tên của Người là Đấng
Hiện Hữu.
24/ H: Đấng Hiện
Hữu có nghĩa là gì?
T:
Có nghĩa là Thiên Chúa tự mình mà có. Không do ai tạo thành và còn mãi muôn đời
không có kết thúc. Người luôn có mặt bên ta để chăm sóc và cứu giúp ta.
25/ H: Thiên
Chúa có tỏ mình cho ta biết thêm về Người nữa không?
T:
Thiên Chúa còn tỏ cho ta biết về Người “giàu
ơn nghĩa và trung tín” (x. Xh 34,6). Người chính là sự thật và tình yêu.
26/ H: Tại sao
phải thờ một mình Thiên Chúa mà thôi?
T:
Vì Người là Đấng Tự Hữu, là Tạo Hóa và là Chủ Tể muôn loài.
27/ H: Tại sao gọi Thiên Chúa là Tạo Hóa, Chủ Tể muôn loài?
T:
Vì Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên trời đất muôn vật hữu hình và vô hình. Đặc
biệt với loài người, Chúa hằng chăm sóc cứu giúp ta.
28/ H: Niềm tin
vào Thiên Chúa duy nhất ảnh hưởng đến đời sống ta thế nào?
T:
Niềm tin vào Thiên Chúa giúp ta:
+
Một là nhận biết sự cao cả và uy quyền của Thiên Chúa để tôn thờ.
+
Hai là sống trong tâm tình thảo mến tri ân.
+
Ba là nhận biết phẩm giá đích thực của tất
cả mọi người.
+
Bốn là sử dụng tốt các thụ tạo Chúa ban tặng.
+
Năm là luôn tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa.
¶
¶¶
BÀI 5: THIÊN CHÚA BA NGÔI
I/ LỜI CHÚA
“Cầu
chúc toàn thể anh em được tràn đầy ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương
của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen” (2Cr 13,13)
“Cùng
với Con Một Cha và Chúa Thánh Thần, Cha là Thiên Chúa duy nhất, là Chúa Tể duy
nhất, không phải trong Một Ngôi đơn độc nhưng là trong Ba ngôi cùng một bản
thể”
(Kinh tiền tụng lễ Chúa Ba Ngôi)
II/ TRÌNH BÀY
NỘI DUNG GIÁO LÝ
Đời Kitô hữu được bắt
đầu với bí tích Thánh Tẩy. Bí tích Thánh Tẩy là nền tảng đức tin và là cánh cửa
khai mở đời sống Kitô hữu. Cũng thế, mầu nhiệm Thiên Chúa là Cha và Con Và
Thánh Thần là nền tảng, suối nguồn của mọi mầu nhiệm Kitô giáo và là ánh sáng
chiếu soi các mầu nhiệm ấy.
Chúa Giêsu nhấn mạnh
niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất, đồng thời Người từ từ vén mở cho chúng ta mầu
nhiệm Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Khi được hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào đứng đầu?”
Đức Giêsu trả lời “Nghe đây, hỡi
It-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu
mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết
sức lực ngươi” (Mc 12, 28-30).
Đồng thời Đức Giêsu
lại tỏ ra cho ta biết Thiên Chúa là Cha theo nghĩa sâu xa đặc biệt:
- Thiên Chúa là cội
nguồn và siêu việt trên mọi sự.
-
Thiên Chúa nhân hậu, yêu thương chăm sóc con cái mình.
- Và Thiên Chúa là
Cha trong tương quan với Người Con duy nhất và ngược lại Con chỉ là Con trong
tương quan với Cha. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Không
ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Người Con
và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11, 27).
Ngoài ra, trước khi
bước vào cuộc tử nạn, Đức Giêsu loan báo với các môn đệ là Ngài sẽ gởi Đấng bảo
trợ khác “Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa
Cha sẽ sai đến nhân Danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh
em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
III/ BÀI HỌC
29/ H: Có mấy
mầu nhiệm chính trong đạo?
T:
Có ba mầu nhiệm chính:
+
Một là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
+
Hai là mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người.
+
Ba là mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc.
30/ H: Mầu nhiệm
Một Chúa Ba Ngôi dạy ta sự gì?
T:
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi dạy ta biết: có một Chúa mà Người có Ba Ngôi:
+
Ngôi thứ nhất là Cha
+
Ngôi thứ hai là Con
+
Ngôi thứ ba là Thánh Thần
31/ H: Nhờ đâu
ta biết mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?
T:
Nhờ Chúa Giêsu mạc khải mà ta biết mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, khi Người dạy
các môn đệ rằng: “các con hãy đi rao giảng muôn dân : rửa tội cho họ nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
32/ H: Ta phải
hiểu thế nào về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?
T:
Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể duy nhất và một uy quyền ngang
nhau nên chỉ là một Thiên Chúa duy nhất mà thôi.
33/ H: Ba Ngôi
hoạt động thế nào?
T:
Ba Ngôi hiệp nhất trong một ý chí và hành động nhưng mỗi Ngôi biểu lộ nét riêng
biệt : Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hóa.
34/ H: Thiên Chúa tỏ cho ta biết mầu nhiệm Ba Ngôi để làm
gì?
T:
Để mời gọi ta thông phần vào chính sự sống của Ba Ngôi và sống hợp nhất yêu
thương theo khuôn mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi.
35/ H: Ta phải
làm gì đối với Chúa Ba Ngôi?
T:
Ta phải tin cậy kính mến, thờ phượng, biết ơn, cầu xin với Chúa Ba Ngôi và nhất
là phải siêng năng nhớ Chúa Ba Ngôi ngự trong lòng ta như đền thờ Người.
¶
¶¶
BÀI 6: THIÊN CHÚA
ĐẤNG SÁNG TẠO
VÀ QUAN PHÒNG
I/ LỜI CHÚA
- “Chính Đấng Tạo Hóa càn khôn đã
nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài” ( 2 Mch 7,23a)
- “Trời xanh tường thuật vinh
quang Thiên Chúa
Không
trung loan báo việc tay Người làm,
Ngày
qua mách bảo cho ngày tới,
Đêm
này kể lại với đêm kia,
Chẳng
một lời một lẽ
Chẳng
nghe thấy âm thanh
Mà
tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
Và
thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” ( Tv 18, 2-5)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Thiên Chúa duy nhất
là Cha và Con và Thánh Thần, là Đấng toàn năng đã lấy khôn ngoan và tình thương
mà sáng tạo muôn vật hữu hình và vô hình “Để
ban cho chúng tràn đầy ơn phúc và cho nhiều thọ tạo được vui hưởng ánh huy
hoàng” (Kinh tạ ơn IV) và Ngài còn luôn hướng dẫn chăm sóc mọi
thọ tạo. Vì thế Chúa Kitô mời gọi ta tín thác nơi Thiên Chúa quan phòng với
tình con thảo (x.Mt 6, 26-34). Còn Thánh Phêrô nhắn nhủ: “mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc
anh em” (1 Pr 5,7).
Câu hỏi về nguồn gốc
và cùng đích của đời người cũng như của vũ trụ là những câu hỏi quan trọng
nhất. Vấn đề không chỉ là tìm hiểu thế giới vật chất phát sinh khi nào và cách
nào, nhưng còn là khám phá ý nghĩa của nguồn gốc đó.
Với người Kitô hữu,
ba chương đầu của sách Sáng Thế chứa đựng những giáo huấn quan trọng về công
trình tạo dựng, về nguồn gốc, và cùng đích của công trình đó, về ơn gọi của con
người, về thảm kịch tội lỗi cũng như về niềm hy vọng cứu độ.
Thiên Chúa tạo dựng
mọi sự từ hư vô (ex nihilo): Ngài không cần có thứ gì đã có trước, cũng không
cần sự trợ giúp nào.
Thiên Chúa tạo dựng
bằng sự khôn ngoan và tình yêu. Vũ trụ này không phải là sản phẩm của tất yếu
hay định mệnh mù quáng nào, nhưng phát xuất từ tình yêu khôn ngoan của Thiên
Chúa. Vì thế, vũ trụ này được tạo dựng cách hài hòa và trật tự.
Thiên Chúa không tạo
dựng rồi thôi, nhưng Ngài tiếp tục gìn giữ chúng hiện hữu và dẫn đưa chúng đến
cùng đích. Con người cần ý thức sự lệ thuộc này để sống đúng với ơn gọi làm
người của mình. (Kn 11, 24-26)
III/ BÀI HỌC
36/ H: Trong
kinh Tin Kính, ta tuyên xưng điều gì về Thiên Chúa sáng tạo?
T:
Ta tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời và đất, muôn vật hữu hình và vô
hình.
37/ H: Trời đất
muôn vật bởi đâu mà có?
T:
Trời đất muôn vật không phải tự nhiên tình
cờ mà có, nhưng là do chính Thiên Chúa đã tạo thành (Ga 1,3; Dt 3,4)
38/ H: Thiên Chúa đã tạo thành trời đất muôn vật cách nào?
T:
Thiên Chúa đã tạo nên mọi sự cách đầy quyền năng, Người không cần dùng một vật
liệu nào có trước, nhưng chỉ phán một lời thì bởi không liền có trời đất muôn
vật hữu hình và vô hình. (St 1,1-2,4)
39/ H: Vì sao
Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật?
T:
Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật để biểu lộ và thông ban vinh quang của
Người, cùng chia sẻ chân - thiện - mỹ của Người cho các loài thụ tạo (Kinh
nguyện Thánh Thể IV)
40/ H: Thiên
Chúa còn tiếp tục săn sóc các loài thụ tạo nữa hay không?
T: Thiên Chúa vẫn tiếp tục săn sóc các loài thụ tạo,
nhất là loài người, một cách khôn ngoan và đầy yêu thương, để thụ tạo tồn tại
và tiến triển theo hướng Người muốn. Đó là sự Chúa quan phòng. (Mt 6,26-30; Tv
103)
41/ H: Trong các loài Chúa đã tạo thành, loài nào trọng hơn?
T:
Có hai loài trọng hơn:
+
Một là Thiên Thần
+
Hai là loài người
42/
H: Thiên
Thần là loài nào?
T:
Thiên Thần là loài thiêng liêng Chúa đã tạo thành để thờ phượng, kính mến Chúa
cùng hưởng phúc đời đời.
43/ H: Làm sao
biết được có Thiên Thần?
T:
Vì Thiên Thần có hiện ra nhiều lần trong Cựu
ước cũng như Tân ước. Chính Chúa Giêsu cũng dạy: “Thiên Thần của các trẻ nhỏ
hằng chiêm ngưỡng Chúa Cha trên trời”.
44/ H: Các Thiên Thần có được hưởng phúc đời đời không?
T:
Không được, vì có một số Thiên Thần phản nghịch cùng Thiên Chúa nên bị phạt
trong hỏa ngục. Đó là tà thần hay ma quỉ.
45/ H: Các Thiên
Thần có giúp đỡ người ta không?
T:
Có, các Thiên Thần nhất là Thiên Thần bản mệnh hằng giữ gìn hồn xác ta và soi
sáng thúc dục ta làm lành lánh dữ, nên ta phải tin cậy và tôn kính các vị ấy
luôn.
46/ H: Ta phải
có thái độ nào đối với Đấng Tạo Hóa?
T:
Ta phải luôn sống tâm tình con thảo, yêu mến, tôn thờ, phó thác vào Người, và
cùng với mọi người bảo vệ, phát triển thế giới ngày càng tốt đẹp hơn.
¶
¶ ¶
BÀI 7: THIÊN CHÚA TẠO
DỰNG CON NGƯỜI
I/ LỜI CHÚA
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
Thiên Chúa. Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”(St 1,27).
Thánh
vịnh (8, 4-7):
“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,
muôn trăng sao Người đã an bài,
thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài muôn sự dưới chân”.
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
1/ Con người là hình ảnh Thiên Chúa:
Kinh
Thánh đưa ra định nghĩa đơn sơ mà sâu sắc: “Con người là hình ảnh Thiên Chúa”(St 1,24). Do đó, có phẩm giá của một ngôi vị, có khả
năng nhận thức về bản thân, làm chủ bản thân, tự hiến mình cách tự do và bước
vào mối hiệp thông với người khác, trên hết là với chính Thiên Chúa, chính nơi
Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, mầu nhiệm và phẩm giá con người được bày tỏ
cách trọn vẹn.
Là
hình ảnh của Thiên Chúa, nên con người là “đỉnh cao”
của tạo thành và Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự là cho con người “Trời và đất, biển khơi và mọi tạo
vật là để cho con người” (Gioan Kim
Khẩu).
2/ Con người là xác và hồn
Con người được tạo
dựng có hồn có xác. Trong Kinh Thánh từ linh hồn được dùng để chỉ sự sống con
người, cái thâm sâu nhất nơi con người, làm nên giá trị con người; linh hồn là
nguyên lý tinh thần nơi con người. Nhờ linh hồn, thân xác con người không chỉ
là những yếu tố vật chất, nhưng là thân xác nhân linh và sống động. Xác và hồn
kết hợp với nhau chặt chẽ làm nên bản tính duy nhất. Nơi con người, linh hồn
không bị hư hoại khi lìa khỏi xác trong giờ chết, và sẽ tái hợp với xác trong
ngày sống lại.
3/ Con người là nam và nữ
Con
người được tạo dựng có nam có nữ. Người nam và người nữ có sự khác biệt nhau,
nhưng cả hai đều cùng có chung một phẩm giá và bình đẳng với nhau. Hơn nữa,
người nam và người nữ bổ túc cho nhau, trở thành “trợ giúp”
cho nhau. Trong hôn nhân, Thiên Chúa kết hợp người nam người nữ nên “Một xương một thịt” và lưu truyền sự sống con người.
III/ BÀI HỌC
47/ H: Thiên
Chúa đã tạo dựng loài người thế nào?
T:
Thiên Chúa dựng nên loài người theo hình ảnh Người, có linh hồn và xác, có trí
tuệ vượt hơn loài vật, và có trái tim biết yêu thương đến vô hạn (Tv 8)
48/ H: Vì ý nào Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ?
T:
Thiên Chúa tạo dựng loài người có nam có nữ
cùng một phẩm giá để họ trợ giúp và bổ túc cho nhau, và trong hôn nhân họ được
cộng tác với Người để lưu truyền sự sống.
49/ H: Khi tạo
dựng, Thiên Chúa đã ban cho con người những đặc ân nào?
T:
Thiên Chúa đã ban cho tổ tông loài người được sống trong ơn nghĩa với Thiên
Chúa, không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng hạnh phúc ấy đã mất khi tổ
tông phạm tội.
50/ H: Những đặc
ân Chúa ban cho tổ tông loài người là những đặc ân nào?
T:
Chúa ban cho hai ông bà những đặc ân này:
+
Trí khôn minh mẫn.
+
Ý chí hướng về điều lành.
+
Không phải đau khổ và không phải chết.
51/ H: Ngoài sự
sống tự nhiên, Thiên Chúa còn ban cho ta sự sống nào khác nữa?
T:
Ngoài sự sống tự nhiên, Thiên Chúa còn ban cho ta sự sống siêu nhiên, nghĩa là
được làm con Thiên Chúa, được yêu mến Người, và được dự phần vào sự sống của
chính Người (Ep 1,5-8; Rm 8,14)
52/ H: Được
Thiên Chúa ban cho sự sống và phẩm giá cao quí như vậy, ta cần phải làm gì?
T:
Ta cần biết cảm tạ Thiên Chúa, và cố gắng làm cho đời sống ta và của mọi người
ngày càng tươi đẹp, hạnh phúc và đầy yêu thương. (1Ga 4,11).
¶
¶ ¶
BÀI 8 : SỰ SA NGÃ VÀ HÌNH PHẠT
I/ LỜI CHÚA
Đức
Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “ngươi đã làm gì thế? Người đàn bà thưa:
“Con rắn đã lừa dối con nên con ăn” (St 3,13).
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Chương 3 sách Sáng Thế
trình thuật sự sa ngã của Adam và Eva. Tác giả đã dùng kiểu nói hình tượng để
trình bày một sự kiện đã xảy ra vào lúc khởi đầu của lich sử nhân loại và chi
phối toàn thể lịch sử đó.
Sách Sáng Thế nói đến
tội ăn một trái cây trái với lệnh của Thiên Chúa cấm. Đó là “Cây cho biết điều thiện, điều ác”
(St 2,17), là biểu tượng diễn tả ranh giới con người không được vượt qua. Là
thụ tạo, con người phải quy phục các định luật của công trình tạo dựng và các
quy tắc luân lý quy định việc sử dụng tự do.
Adam và Eva đã lạm
dụng tự do, bất tuân mệnh lệnh của Thiên Chúa, trái lại muốn tự mình ấn định
luân lý cho mình. Do ma quỉ cám dỗ, con người đã không tuân lệnh Thiên Chúa vì
đã tin vào sự phán đoán của mình hơn là vào Lời Chúa. Nghĩa là khi phạm tội,
con người không chấp nhận cái thân phận thụ tạo của mình, làm theo sở thích riêng, lấy mình làm mẫu mực tối cao và đi
theo con đường của mình: Đó là tội bất tuân, kiêu ngạo.
Tội tổ tông đã dẫn
đến hậu quả bi đát: phá đổ trật tự căn bản giữa con người với Thiên Chúa, làm
mất sự hài hòa thuở ban đầu với Thiên Chúa, với bản thân và tha nhân.
1.
Làm mất sự hài hòa giữa Thiên Chúa:
-
Làm mất sự gần gũi thân thiện giữa con người với Thiên Chúa. Sau khi phạm tội,
con người sợ hãi, trốn chạy không dám gặp mặt Thiên Chúa.
-
Làm con người xa Thiên Chúa là nguồn sống, vì thế hậu quả của tội là sự chết.
2.
Mất hòa hợp với bản thân.
-
Không làm chủ được chính mình, vì các bản năng không còn tuân theo lý trí, dục
tình trở nên lộn xộn.
-
Sự sinh nở đáng lẽ là nguồn vui, lại trở nên nặng nề cho người mẹ.
3.
Mất hài hòa với tha nhân
Sau khi phạm tội
người ta:
-
Không còn liên đới với nhau.
-
Đổ lỗi cho nhau.
- Hôn nhân bị ảnh hưởng của dục vọng và ý muốn thống
trị.
-
Người ta bắt đầu ghen ghét giết nhau (Cain và Aben).
III/ BÀI HỌC
53/ H: Tổ tông
loài người đã phạm tội gì?
T:
Tổ tông loài người đã lạm dụng tự do mà không vâng phục Thiên Chúa, từ chối
tình yêu và sống đối nghịch với Người. Đó là tội tổ tông.
54/ H: Tội tổ
tông có truyền lại cho con cháu không?
T:
Tội tổ tông truyền lại cho con người một bản tính đã mất sự thánh thiện nguyên
thủy, nên gọi là tội tổ tông truyền.
55/ H: Tội tổ tông đã gây ra những hậu quả nào?
T:
Tội tổ tông làm cho con người mất ơn nghĩa với Chúa, mất sự hòa hợp với bản
thân, với đồng loại và mọi loài thụ tạo khác, nhất là vì tội mà con người phải
đâu khổ và phải chết..
56/ H : Sau khi
tổ tông loài người phạm tội, Thiên Chúa có bỏ loài người không?
T:
Thiên Chúa không bỏ mà lại hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu chuộc con người.
¶
¶ ¶
BÀI 9: ĐỨC GIÊSU CON
MỘT THIÊN CHÚA
I/ LỜI CHÚA
“Đức Giêsu lại hỏi: ‘Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?”. Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,15-16).
“Ngôi lời đã trở nên người phàm… là Con Một đầy tràn
ân sủng và sự thật” (Ga 1,14).
“Và này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và
đặt tên là Giêsu ”(Lc 1,31).
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
1/ Đức Giêsu là Đấng Kitô
Sinh ra làm người ai
cũng có một tên gọi. Tên gọi chỉ tính cá biệt của mỗi người. Nhưng trong Kinh
Thánh, tên gọi thường bao hàm một sứ mạng.
Trong
ngày truyền tin, sứ thần loan báo cho Đức Maria: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ
một con trai, và đặt tên là Giêsu” (Lc 1,31). Trong ngôn ngữ Do Thái từ Giêsu
có nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ” như lời Thiên Thần nói với Giuse: “Ông phải đặt
tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của
họ”(Mt 1,21). Danh Thánh Đức Giêsu còn được đặt ở trung điểm của lời cầu nguyện
Kitô giáo. Vì thế, ta xin bất cứ điều gì cùng Thiên Chúa Cha cũng phải nhân
danh Chúa Kitô (x.Ga 15,16).
Đức
Giêsu cũng được gọi là Đấng Kitô. Kitô là từ Hy Lạp bởi từ Do Thái là Messia,
nghĩa là Đấng được xức dầu. Theo truyền thống Do Thái những người được Thiên
Chúa tuyển chọn, trao sứ mạng như các Vua, Tư Tế, Ngôn Sứ đều được xức dầu nhân
danh Thiên Chúa, và Đức Giêsu đã xác nhận lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là
Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Khi Gioan làm phép rửa cho
Ngài “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người”
(Cv 10,38). Sau này chính Đức Giêsu đã công khai tuyên bố sứ mạng của mình mà
ngôn sứ Isaia đã loan báo: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn
phong tôi… Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh”(Lc 4,18-21).
2/ Đức Giêsu “Con Một Thiên Chúa”
Đức Giêsu là Con Một
duy nhất của Thiên Chúa, mà Hội Thánh hằng tuyên xưng: Tôi Tin Kính Đức Giêsu
Kitô Con Một Thiên Chúa.
Chính Phêrô cũng
tuyên xưng Đức Giêsu là: “Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, và Đức Giêsu cho
Phêrô biết đó là Mạc Khải từ Cha Ngài.
Sau khi trở lại,
Phaolô bắt đầu rao giảng Chúa Giêsu trong các Hội Đường rằng Người là Con Thiên
Chúa.
Trước Thượng Hội
Đồng, khi những kẻ tố cáo Người “Vậy ông là con
Thiên Chúa sao?" Đức
Giêsu trả lời: “Đúng như các
ông nói” (Lc 22,70).
Cuối cùng, viên Bách
quản cũng thốt lên khi nhìn Đức Giêsu trên thập giá: “Quả Thật, người này là Con Thiên Chúa”
(Mc 15,39).
Ai muốn trở thành
Kitô hữu nhất thiết phải tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
III/ BÀI HỌC
57/ H: Trong
kinh Tin Kính ta tuyên xưng điều gì về Chúa Giêsu Kitô?
T:
Ta tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người để
cứu chuộc nhân loại.
58/ H: Danh xưng
Giêsu - Kitô có nghĩa gì?
T:
Giêsu có nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”, nói
lên sứ mạng cứu thế của Người. Còn Kitô có nghĩa là Đấng được sức dầu. Thiên
Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người, để Người chu
toàn sứ mệnh Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế. (x. Cv 10,28)
59/ H: Vì sao tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa?
T:
Vì Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Con được Chúa Cha sinh ra từ đời đời. Người là Con
Một của Chúa Cha và chính Người cũng là Thiên Chúa.
60/ H: Vì sao
tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Chúa?
T:
Ta tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Chúa vì ta nhận uy quyền tối cao và thần linh
của Người.
61/ H: Vì sao
Con Thiên Chúa xuống thế làm người?
T:
Con Thiên Chúa xuống thế làm người vì bốn lẽ này:
+
Một là để cứu chuộc ta khỏi tội
+
Hai là để tỏ cho ta biết tình yêu của Thiên Chúa
+
Ba là để làm mẫu mực cho ta sống thánh thiện
+
Bốn là để ta được kết hợp với Người mà trở nên con cái Thiên Chúa.
62/ H: Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người như thế nào?
T:
Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần cho Ngôi Hai “nhập thể trong lòng
Trinh Nữ Maria và đã làm người” (Kinh Tin Kính)
63/ H: Chúa
Giêsu có mấy bản tính?
T:
Chúa Giêsu có hai bản tính: một là bản tính loài người, hai là bản tính Thiên
Chúa nên Chúa Giêsu vừa là người thật như ta, vừa là Thiên Chúa thật như Chúa
Cha. Hai bản tính ấy kết hợp trong một ngôi vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa.
64/ H: Cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu đã diễn ra thế nào?
T:
Người sống ở thế gian 33 năm. Gồm 30 năm sống ẩn dật ở Nazarét. Rồi 3 năm sau
hết, Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Sau cùng chịu chết trên thập
giá thời Phong-xi-ô Phi-la-tô.
65/ H: Đời sống
ẩn dật của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì?
T: Đời sống ẩn dật của Chúa Giêsu có những ý nghĩa
này:
+
Một là nêu gương hiếu thảo, vâng phục cha mẹ
+
Hai là nêu gương nên thánh trong cuộc sống gia đình và lao động thường ngày.
66/ H: Khi bắt đầu cuộc đời công khai, Chúa Giêsu đã làm gì?
T:
Người đã đến sông Gio-đan chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả để nói lên rằng:
Người chấp nhận và khai mạc công trình cứu chuộc của Người. Công trình này sẽ
được hoàn thành trong cuộc khổ nạn.
67/ H: Khi rao giảng, Chúa Giêsu chủ yếu loan báo điều gì?
T:
Khi rao giảng Chúa Giêsu loan báo: “Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần,
anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. (Mc 1,15)
68/ H: Có những
dấu chỉ nào cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến gần?
T:
Để chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa đang đến
gần, Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ và những việc phi thường như: biến nước
thành rượu, hóa bánh ra nhiều, xua trừ ma quỉ, chữa lành bệnh tật, cho kẻ chết
sống lại, nhất là chính Người sau khi chết đã tự mình sống lại.
69/ H: Trong khi
rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu có chọn ai cộng tác với Người không?
T:
Chúa Giêsu đã chọn Mười hai người gọi là Tông đồ để sai đi tiếp tục sứ mệnh của
Người, và trao cho Phêrô quyền cai quản Hội Thánh.
70/ H: Các Tông đồ
là những vị nào?
T:
Đó là Simon mà Người gọi là Phêrô, rồi đến
Anrê, anh của ông, sau đó là Giacôbê, Gioan, Philipphê, Batôlômêo, Matthêu,
Tôma, Giacôbê con ông Anphê, Simon nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa
Itcariốt (kẻ phản bội). (x. Lc 6,14-16)
¶
¶ ¶
BÀI 10: CUỘC KHỔ NẠN
CỦA CHÚA GIÊSU
I/ LỜI CHÚA
“Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ
biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các
thượng tế, và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Mầu nhiệm Vượt Qua
(Tử nạn và Phục sinh) của Đức Giêsu là đỉnh cao trong công trình cứu độ của
Thiên Chúa “Nào Đấng Kitô
lại chẳng phải chịu khổ hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người
sao?”(Lc 24,26). Vì thế, người tín hữu Kitô phải quan tâm tìm
hiểu và suy niệm về khung cảnh lịch sử đã dẫn đến cái chết của Đức Giêsu, vừa
lắng nghe lời Thiên Chúa để khám phá ý nghĩa của cái chết đó trong chương trình
cứu độ của Thiên Chúa.
Tìm về khung cảnh
lịch sử: cái chết của Đức Giêsu không phải là chuyện đột xuất bất ngờ, nhưng là
cao điểm của cuộc đối kháng kéo dài giữa Đức Giêsu và những thủ lãnh tôn giáo
Do Thái. Có thể nhìn cuộc đối kháng đó ở ba khía cạnh:
- Đối với lề luật:
Trong
bài giảng trên núi, Đức Giêsu tuyên bố: “Anh em tưởng Thầy đến để bãi bỏ lề luật Môsê, hoặc lời
các Tiên Tri. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Trước mắt người Do
Thái, Chúa Giêsu xuất hiện như một kinh
sư giải thích lề luật, đồng thời Chúa Giêsu tranh luận với những tiến sĩ luật
về những điều trong Lề Luật như:
+ Luật về sự thanh
sạch (Mc 7,18-21).
+ Về ngày Sabat (Mc
2,25-27).
Người không bãi bỏ,
nhưng kiện toàn lề luật bằng cách đưa ra lời giải thích tối hậu với uy quyền
thần linh: “còn Thầy, Thầy
bảo anh em”(Mt 5,34) và phủ nhận những “truyền
thống của người phàm”.
- Đối với Đền Thờ
Chúa
Giêsu dành cho Đền Thánh Giêrusalem sự tôn kính đặc biệt. Nơi đó, Ngài đã được
Cha Mẹ hiến dâng cho Thiên Chúa.
Ngài coi Đền Thờ là
nhà của Cha, nhà cầu nguyện. Vì thế, Ngài không chấp nhận sự lạm dụng Đền Thờ,
biến Đền Thờ thành nơi buôn bán, trộm cướp (x.Mt 21, 13).
Trước cuộc khổ nạn,
Đức Giêsu loan báo Đền Thờ sẽ bị phá hủy không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.
Những lời tiên báo ấy đã bị xuyên tạc và trở thành lời tố cáo Đức Giêsu để lên
án tử hình Ngài (x.Mc 14, 28).
- Chúa Giêsu và niềm tin vào Thiên Chúa
duy nhất.
Trong khi rao giảng
Chúa Giêsu đã gây cớ vấp phạm cho người Do Thái trong cách Người ứng xử với tội
nhân: “Tôi không đến để kêu gọi người
công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”
(Lc 5, 32).
Chúa Giêsu cũng khẳng
định Người có quyền tha tội, và người Do Thái coi đó là phạm thượng, vì quyền
tha tội chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi. Và cuối cùng Chúa Giêsu đã bị Thượng
Hội Đồng phán quyết là phải chết vì tội nói phạm thượng (Mt 26, 64-66).
III/ BÀI HỌC
71/ H: Chúa Giêsu
đã làm gì để cứu chuộc ta?
T:
Chúa Giêsu đã tự hiến đời mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá và sống
lại để cứu chuộc ta.
72/ H: Chúa
Giêsu đã chịu đau khổ như thế nào?
T:
Chúa Giêsu đã chịu nhiều đau khổ nơi thân xác và trong tâm hồn.
73/ H: Chúa Giêsu
đã chịu đau khổ nào nơi thể xác?
T: Chúa Giêsu đã sống vất vả khó nhọc, rồi trong cuộc
khổ nạn, Người phó mình chịu đánh đòn, đội mũ gai, vác thập giá, chịu đóng đinh
và chết giữa hai tên trộm cướp.
74/ H: Chúa
Giêsu chịu những đau khổ nào nơi tâm hồn?
T: Trong khi giảng đạo Chúa Giêsu thường bị hiểu lầm,
chống đối và sau hết Người bị Giuđa phản bội, các môn đệ chối bỏ, dân chúng phỉ
báng chê cười và có lúc chính Người cũng cảm thấy như bị Chúa Cha ruồng bỏ.
75/ H: Vì sao
Chúa Giêsu bị chống đối?
T: Vì nhiều người trong giới lãnh đạo Do Thái Giáo
cho rằng:
+
Chúa Giêsu chống lại luật Môsê
+
Coi thường đền thờ Giêrusalem
+
Và nhất là phạm thượng vì dám coi mình bằng
Thiên Chúa.
76/ H: Sự chống đối
như vậy có hợp lý không?
T:
Sự chống đối như vậy không hợp lý vì:
1.
Chúa đến “không để hủy bỏ lề luật” nhưng làm cho nên hoàn hảo hơn.
2.
Chúa rất tôn trọng đền thờ, và coi đó là nhà Cha của Người, là nơi dành riêng
để cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa, nên Người đã xua đuổi những kẻ buôn bán ra
khỏi đền thờ.
3.
Chúa xưng mình là Con Thiên Chúa vì quả thật Người là Đức Kitô Đấng Thiên Chúa
hứa ban, nay Người đến để thi hành Thánh Ý Chúa Cha.
77/ H: Vì sao Thiên Chúa lại muốn cho Chúa Giêsu phải chết?
T:
Vì yêu thương ta, Thiên Chúa đã “sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho
chúng ta”. (2Cr 5,19)
78/ H: Chúa Giêsu có thái độ nào trước ý muốn của Chúa Cha?
T:
Chúa Giêsu đã tự nguyện vâng phục Chúa Cha “cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và
chết trên thập giá”
79/ H: Chúa
Giêsu chịu chết như thế nào?
T:
Chúa Giêsu đã bị bắt nộp cho tổng trấn Philatô, bị đóng đinh, lăng nhục rồi đem
đi xứ án đóng đinh và chết trên thập giá. Xác người được mai táng trong mồ, còn
linh hồn Người thì xuống ngục tổ tông.
80/ H: Chúa
Giêsu xuống ngục tổ tông để làm gì?
T:
Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông để loan báo Tin Mừng cứu độ cho những người công
chính đã chết trước khi Người đến.
¶
¶ ¶
BÀI 11: CHÚA GIÊSU
SỐNG LẠI VÀ LÊN TRỜI
I/ LỜI CHÚA
“Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng
và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14)
“Chúng tôi xin báo cho anh em một Tin Mừng này: Điều Thiên Chúa hứa với
cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các Ngài, khi
làm cho Đức Kitô sống lại”(Cv 13, 32-33)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
1/ Đức
Giêsu Phục Sinh: Biến cố lịch sử và siêu việt
Đối với Kitô giáo,
Đức Giêsu phục sinh là chân lý tuyệt đỉnh của đức tin, và là tâm điểm đời sống
người tín hữu, hôm qua cũng như hôm nay. Nhưng Đức Giêsu phục sinh có thực là
biến cố lịch sử không?- Tại sao biến cố ấy lại là nền tảng cho đức tin?- Và nếu
Đức Giêsu đã sống lại lên trời, Ngài có còn liên hệ với cuộc sống chúng ta hôm
nay không?
Rất nhiều câu hỏi
được đặt ra và thúc đẩy chúng ta suy niệm mầu nhiệm này trong ánh sáng Lời
Chúa.
a/ Phục Sinh biến cố lịch sử
Đức Giêsu phục sinh
là biến cố có thật, với những chứng từ có giá trị lịch sử được Tân Ước xác
nhận. Hai yếu tố cần được quan tâm là sự kiện mồ trống và những lần hiện ra của
Đấng Phục Sinh.
Yếu tố đầu tiên là
ngôi mộ trống (x. 20,5-7) tự nó, sự kiện này chưa phải là bằng chứng trực tiếp
cho việc Chúa sống lại, vì người ta có thể đưa ra nhiều cách giải thích khác(x.
Mt 28, 1-15). Tuy nhiên sự kiện này đã là dấu chỉ quan trọng, là bước đầu dẫn
các môn đệ đến việc nhìn nhận sự phục sinh của Đức Kitô. Thánh Gioan viết: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8), nghĩa
là ông đã thấy ngôi mộ trống và việc đó đã dẫn ông đến chỗ tin rằng Thầy mình
đã sống lại.
Yếu tố thứ hai là
những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh. Khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu hiện
ra với nhiều người:
-
Trước tiên là bà Maria Madalena và các phụ nữ ra mồ từ sáng sớm để hoàn tất
việc ướp xác Chúa Giêsu. Các bà trở thành sứ giả loan báo sự sống lại của Đức
Kitô cho chính các Tông Đồ.
-
Sau đó, Chúa Giêsu hiện ra với các Tông Đồ và trước tiên là Phêrô và cả nhóm
Mười Hai, với hai môn đệ trên đường Emmaus.
-
Thánh Phaolô còn nói đến hơn 500 người đã được Chúa Giêsu hiện ra một
lượt(x.1Cr 15, 4-8)
b/ Phục sinh, biến cố siêu việt
Đức Giêsu đã sống lại
là sự kiện lịch sử, được xác định bằng những dấu chỉ mộ trống và những lần hiện
ra của Đấng Phục Sinh. Tuy nhiên, không ai tận mắt chứng kiến và cũng không có
thánh sử nào mô tả cảnh Chúa sống lại diễn ra thế nào về mặt thể lý. Sự phục
sinh của Chúa là một biến cố vượt trên lịch sử, và mãi mãi là trung tâm của mầu
nhiệm đức tin.
2/ Chứng từ các Tông Đồ:
Với tư cách là những
chứng nhân của Đấng Phục Sinh, các Tông Đồ mãi mãi là những tảng đá nền móng
của Hội Thánh. Đức tin của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng như của chúng ta
hôm nay được xây dựng trên lời chứng của các Tông Đồ, những “Chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô”
(x.Cv1,22)
III/ BÀI HỌC
81/ H: Sau khi
Chúa Giêsu chết và được mai táng, có điều kỳ diệu nào xảy ra?
T:
Sau khi chết chưa đủ ba ngày, Chúa Giêsu đã sống lại như Người đã báo trước.
82/ H: Dựa vào
đâu mà biết Chúa Giêsu sống lại thật?
T:
Dựa vào hai điều này:
+
Một là ngôi mộ trống, không còn xác Chúa mà chỉ còn lại những vải liệm xếp ngay
ngắn gọn gàng.
+
Hai là Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần với các môn đệ, cùng ăn uống và trò chuyện
với họ.
83/ H: Việc Chúa
Giêsu sống lại chứng thực điều gì?
T:
Việc Chúa Giêsu sống lại chứng thực điều này:
+
Một là Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.
+
Hai là lời hứa trong Kinh Thánh nay đã được
thực hiện.
+
Ba là mọi điều Chúa Giêsu đã nói và đã làm
đều chân thật.
84/ H: Việc Chúa
Giêsu sống lại là công trình của ai?
T:
Việc Chúa Giêsu sống lại không chỉ là công việc của Người, mà còn là công trình
của Ba Ngôi Thiên Chúa.
85/ H: Sự sống
lại của Chúa Giêsu có liên hệ gì với ta?
T:
Sự sống lại của Chúa Giêsu có những ý nghĩa này:
+
Một là mở lối cho ta bước vào sự sống mới
+
Hai là khơi nguồn và bảo đảm sự sống lại sau
này của ta
86/ H: Sau khi
sống lại, Chúa Giêsu làm gì?
T:
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn hiện ra dạy dỗ, an ủi các môn đệ trong 40
ngày, rồi Người lên trời ngự bên hữu Chúa Cha.
87/ H: Chúa Giêsu lên trời ngự bên hữu Chúa Cha nghĩa là gì?
T:
Có những ý nghĩa này:
+
Một là người không còn hiện diện hữu hình ở
trần gian
+
Hai là Người được Chúa Cha tôn vinh
+
Ba là Người dẫn đường chúng ta vào nước vinh hiển của Chúa Cha và không ngừng
chuyển cầu cho ta.
88/ H: Tin vào
Chúa Kitô phục sinh ta phải sống thế nào?
T:
Ta phải sống lạc quan tin tưởng, và can đảm theo đường lối Chúa, dù phải chấp
nhận thiệt thòi, mất mát, vì tin rằng ta sẽ được dự phần vinh quang với Người.
89/ H: Chúa
Giêsu còn đến thế gian nữa không?
T:
Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
90/ H: Phán xét
kẻ sống và kẻ chết nghĩa là gì?
T:
Nghĩa là ngày tân thế, Chúa Giêsu uy quyền sẽ ngự đến trong vinh quang, tách
biệt kẻ dữ người lành và tùy công hay tội họ đã làm mà thưởng hay phạt.
91/ H: Khi nào
Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang?
T:
Chắc chắn Người sẽ trở lại trong vinh quang, nhưng ta không biết được lúc nào.
Vì vậy, ta được mời gọi luôn sống tỉnh thức và đợi chờ.
¶
¶¶
BÀI 12: CHÚA THÁNH THẦN
I/ LỜI CHÚA
“Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai
đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại
mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga14,26)
“Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em
một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng
mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết
Người. Còn anh em biết Người Vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”
(Ga 15,26).
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Khi
công trình Chúa Cha trao phó cho Chúa Con thực hiện trên trần gian đã hoàn tất,
Chúa Thánh Thần được sai đến trong ngày lễ Ngũ Tuần để thánh hóa Giáo Hội mãi
mãi, và như thế những ai tin sẽ được tới cùng Chúa Cha qua Chúa Kitô trong
Thánh Thần duy nhất (x.Ep 2,18).
Chính Ngài là Thánh
Thần ban sự sống, và là mạch nước vọt lên sự sống vĩnh cửu (x.Ga 4,14)
Chúa Thánh Thần ngự
trong Giáo Hội và trong tâm hồn các tín hữu như ngự giữa đền thờ. Trong họ Ngài
cầu nguyện và chứng nhận họ là dưỡng tử. Ngài thông đạt cho Giáo Hội toàn thể
chân lý (x. Ga 16,13- GH 4)
1/
Danh
Xưng
Chúa Thánh Thần là
danh xưng để chỉ Ngôi Ba Thiên Chúa, Đấng chúng ta phụng thờ và tôn vinh cùng
với Chúa Cha và Chúa Con.
Từ “Thần Khí” dịch từ
tiếng Do Thái Ruah có nghĩa là hơi thở, không khí, gió (x. Ga 3,5-8). Chúa
Thánh Thần là Hơi Thở của Thiên Chúa, là Thần Khí.
2/ Danh Hiệu
Chúa Giêsu khi hứa
sai Thánh Thần đến đã gọi Chúa Thánh Thần là Đấng bào chữa, cũng được dịch là
Đấng An Ủi.
Những danh hiệu khác:
Thần Chân Lý, Thần Khí của Lời hứa (Ep 1,13), Thần Khí của Chúa Kitô, Thần Khí
vinh hiển (1Pr 4,14).
3/ Biểu Tượng
Nước: Biểu tượng cho sự
sống và sinh sản “Chúng ta được chịu phép
rửa trong cùng một Thần Khí” (1Cr 12,13).
Sự xức dầu:
Dầu chỉ bí tích của phép thêm sức. Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng được xức dầu
của Thiên Chúa cách trọn vẹn và độc nhất vô nhị.
Lửa: Biểu tượng của sức
mạnh biến đổi, của tác động Thánh Thần. Dưới hình ảnh lưỡi lửa, Chúa Thánh Thần
ngự xuống trên các môn đệ vào lễ Ngũ Tuần (Cv 2,3-4).
Mây và Ánh Sáng:
Tỏ lộ Thiên Chúa hằng sống và cứu độ. Đám mây đều mang ý nghĩa: sự hiện diện
của Thiên Chúa. Nhưng khi sứ thần nói: “Thánh
Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”,
thì đám mây này chỉ rõ Chúa Thánh Thần hơn cả.
Chim Bồ Câu:
Khi Đức Giêsu lên khỏi nước trong dịp chịu phép rửa, dưới hình chim bồ câu,
Thánh Thần xuống trên Người. Thánh Thần cũng xuống và ở lại trong tâm hồn đã
được thanh luyện của người chịu Thanh Tẩy.
III/ BÀI HỌC
92/ H: Chúa
Thánh Thần là Đấng nào?
T:
Chúa Thánh Thần là Ngôi Thứ Ba, bởi Chúa Cha
và Chúa Con mà ra. Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền
năng như Chúa Cha và Chúa Con.
93/ H: Chúa
Thánh Thần còn được gọi bằng những danh xưng nào?
T:
Ngài còn được gọi là:
+
Thần Khí Thiên Chúa
+
Đấng ban sự sống
+
Đấng bào chữa
+
Đấng an ủi
+
Thần chân lý
94/ H: Kinh
Thánh thường dùng những hình ảnh nào để chỉ Chúa Thánh Thần?
T:
Kinh Thánh thường dùng các hình ảnh này: nước, lửa, gió, việc sức dầu, áng mây,
ánh sáng, ấn tín, bàn tay, ngón tay và chim bồ câu.
95/ H: Kinh
Thánh thường biểu lộ sức mạnh ơn Chúa Thánh Thần bằng những dấu chỉ nào?
T:
Bằng 3 dấu chỉ này: gió, lửa, và hơi thở.
96/ H: Tại sao
Chúa Giêsu ví Chúa Thánh Thần như gió?
T:
Vì như gió muốn thổi đâu thì thổi, Chúa Thánh Thần cũng vô hình, nhưng có sức
tác động mọi vật theo ý Người.
97/ H: Tại sao
Chúa Thánh Thần hiện hình lưỡi lửa?
T:
Vì như lửa vừa sáng vừa nóng, vừa đốt vừa tẩy sạch. Chúa Thánh Thần cũng vừa
soi sáng trí khôn ta, vừa đốt lửa trong ta, vừa tiêu diệt tội lỗi, vừa thanh
tẩy các linh hồn
98/ H: Tại sao
Chúa Thánh Thần được gọi là hơi thở?
T:
Vì như hơi thở là biểu hiện sự sống, Chúa Thánh Thần là nguồn sống siêu nhiên
cho các linh hồn.
99/ H: Chúa
Thánh Thần có hiện diện trong lịch sử Cựu ước không?
T:
Người hiện diện trong mọi biến cố quan trọng của lịch sử Cựu ước, như:
+
Khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ
+
Khi Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ
+
Trong các cuộc thần hiện
+
Trong niềm mong đợi Đấng Cứu Thế
100/ H: Chúa Thánh Thần có tỏ hiện cho ta thấy khi nào
không?
T:
Chúa Thánh Thần có hiện ra trong hai dịp
quan trọng này:
+
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông
Gio-đan (dưới hình chim bồ câu)
+
Ngày Lễ Ngũ Tuần, khi các Tông đồ đang họp nhau cầu nguyện cùng Đức Mẹ (dưới
hình lưỡi lửa)
101/ H: Chúa
Thánh Thần làm gì trong đời sống và hoạt động của Chúa Kitô?
T:
Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn đời sống và hoạt động của Chúa Kitô từ khi nhập
thể cho đến phục sinh.
102/ H: Chúa Thánh Thần được ban cho các Tông đồ lúc nào?
T:
Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa ban Chúa Thánh Thần. Rồi trong buổi chiều ngày Phục
Sinh, Người hiện ra chúc bình an, thổi hơi trên các Tông đồ và ban Chúa Thánh
Thần. Nhất là ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các Tông đồ
dưới hình lưỡi lửa và đổi mới các ngài hoàn toàn.
103/ H: Chúa
Thánh Thần đã ban ơn gì cho các Tông đồ?
T:
Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng trí khôn,
tăng thêm sức mạnh và thánh hóa các Tông đồ để các ngài hăng hái ra đi rao
giảng Tin Mừng và làm chứng về Chúa Kitô.
104/ H: Chúa Thánh Thần hoạt động trong Hội Thánh thế nào?
T:
Chúa Thánh Thần thánh hóa, soi sáng, gìn giữ, và canh tân Hội Thánh; hợp nhất
các tín hữu nên một trong Chúa Kitô và thúc đẩy Hội Thánh chu toàn sứ mệnh Chúa
Kitô trao phó.
105/ H: Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các tín hữu thế nào?
T:
Chúa Thánh Thần thánh hóa các tín hữu, làm cho họ trở nên con cái Chúa, dự phần
vào chính sự sống của Chúa Kitô, và thêm sức mạnh để trở thành nhân chứng cho
Chúa Kitô.
106/ H: Ta phải
sống với Chúa Thánh Thần thế nào?
T:
Ta phải tin kính, thờ phượng, cầu xin Chúa Thánh Thần và vâng theo ơn Người soi
sáng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người.
¶
¶¶
BÀI 13: HỘI THÁNH CÔNG
GIÁO
TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ
CỦA THIÊN CHÚA
I/ LỜI CHÚA
“Người
lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng,
với quyền trừ quỉ” (Mc 3,14-15)
“Với ân huệ của Đấng sáng lập,
và trong khi trung thành tuân giữ các giới răn bác ái, khiêm nhường và từ bỏ
Hội Thánh đã lãnh nhận sư mệnh rao truyền và thiết lập Nước Chúa Kitô và Nước
Thiên Chúa cho mọi dân tộc, Hội Thánh là mầm mống và khai nguyên Nước ấy ở trên
trần gian” (GH 5)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
1/ Danh Xưng
Trong ngôn ngữ Kitô
giáo, từ Hội Thánh( Ecclesia) do tiếng Hy Lạp có nghĩa là triệu tập, dùng để
chỉ tập họp phụng vụ, nhưng cũng để chỉ một cộng đoàn tín hữu ở địa phương và
toàn thể cộng đoàn các tín hữu trên khắp thế giới. Ba nghĩa này gắn kết chặt
chẽ với nhau: Hội Thánh là Dân được Thiên Chúa qui tụ từ khắp nơi; Hội Thánh ấy
hiện diện trong những cộng đoàn địa phương; Hội Thánh ấy được cụ thể hóa trong
cộng đoàn phụng vụ, nhất là khi của hành Thánh Thể.
2/ Biểu Tượng
Mầu nhiệm Hội Thánh
quá phong phú không thể diễn tả vắn gọn. Vì thế, Kinh Thánh đã dùng nhiều hình
ảnh như biểu tượng để diễn tả một thực tại phong phú lạ lùng:
-
Hội Thánh là Chuồng Chiên với cửa vào duy nhất là Đức Kitô.
-
Hội Thánh là Đoàn Chiên mà chủ chăn là Thiên Chúa.
-
Hội Thánh là Đất Trồng, là cánh đồng của Thiên Chúa.
-
Hội Thánh là Công Trình xây dựng của Thiên Chúa.
-
Hội Thánh là Nhà Thiên Chúa.
-
Hội Thánh là Giêrusalem Mới.
-
Hội Thánh là Giêrusalem Trên Trời.
-
Hội Thánh là Hiền Thê không tì vết của Con Chiên.
3/ Hội Thánh: Dân Thiên Chúa
Thiên Chúa không muốn
cứu độ và thánh hóa con người cách riêng lẻ, không liên kết với nhau. Nhưng
Ngài muốn thiết lập họ thành một Dân để họ nhận biết Ngài trong chân lý và
phụng sự Ngài trong thánh thiện.
Vì thế, Thiên Chúa đã
chọn Itraen làm dân của Ngài, thiết lập với họ một giao ước, giáo huấn họ dần
dần.
Tất cả những điều
trên chỉ là chuẩn bị và hình bóng của giao ước mới và hoàn hảo, sẽ được ký kết
trong Đức Kitô bằng chính Máu của Người.
Toàn thể Dân Thiên
Chúa tham dự vào ba chức năng: Tư Tế, Tiên Tri, Vương Đế của Đức Kitô, bằng
những cách thế khác nhau.
4/ Hội Thánh: Thân Thể Đức Kitô
Việc so sánh Hội
Thánh với một thân thể làm nổi bật sự gắn bó thâm sâu giữa Giáo Hội và Đức
Kitô. Hội Thánh không chỉ được qui tụ quanh Đức Kitô, nhưng còn được nên một
với Người và trong Người.
Trong Hội Thánh là
Thân Thể Đức Kitô, mọi chi thể được hợp nhất với nhau nhờ kết hợp với Đức Kitô,
vì thế cần vượt lên trên những khác biệt và chia rẽ để sống tình liên đới.
Đức Kitô là Đầu của
Thân Thể. Vì thế, Đức Kitô và Hội Thánh là “Đức Kitô Toàn Thể”
(Chistus totus). Hội Thánh là một với Đức Kitô.
Hội Thánh là Hiền Thê
của Đức Kitô Người đã hiến mạng sống mình vì Hội Thánh: Để thánh hóa và Thanh
Tẩy Hội Thánh” (Ep 5,26).
5/ Hội Thánh là Đền Thờ Chúa Thánh Thần
-
Chúa Thánh Thần là Linh Hồn Của Hội Thánh: “Tinh
Thần hay Linh Hồn chúng ta có tương quan với các chi thể thế nào, thì Chúa
Thánh Thần cũng như thế đối với các chi thể của Đức Kitô, đối với Thân Thể Đức
Kitô là Hội Thánh” (Thánh Augustinô).
-
Chúa Thánh Thần thánh hóa Hội Thánh, Ngài là “Nguyên lý của mọi hành động tác sinh và thật sự có giá trị cứu độ trong
mỗi phần của thân thể” (Đức Pio XII), Chúa Thánh Thần hoạt động bằng nhiều
cách:
+ Bằng Lời Thiên Chúa
+ Bằng bí tích rửa
tội và các bí tích
+ Bằng các nhân đức
giúp các tín hữu hành động theo sự lành
+ Bằng các đặc sủng
-
Chúa Thánh Thần làm cho Hội Thánh trở thành “Đền thờ sống động của Thiên Chúa”, bởi Ngài hiện diện trong mỗi
phần tử và trong Toàn Thân.
III/ BÀI HỌC
107/ H: Hội
Thánh là gì?
T: Hội Thánh là
cộng đoàn những người được Thiên Chúa qui tụ thành dân Thiên Chúa và thành thân
thể Chúa Kitô.
Hội
Thánh vừa là dấu chỉ, vừa là khí cụ giúp con người kết hợp với Thiên Chúa và
hợp nhất với nhau. Vì thế Hội Thánh được gọi là mầu nhiệm và là bí tích của ơn
cứu độ.
108/ H: Chúa
Giêsu đã lập Hội Thánh thế nào?
T:
Từ khởi đầu cuộc đời công khai truyền đạo, Chúa Giêsu đã qui tụ những kẻ tin
theo Người và chọn riêng 12 Tông đồ, rồi đặt Phêrô làm đầu để xây dựng Hội
Thánh ở trần gian.
109/ H: Hội
Thánh gồm những yếu tố nào?
T:
Hội Thánh gồm hai yếu tố này:
+
Một là yếu tố nhân loại: là một tổ chức hữu hình với cơ cấu phẩm trật.
+
Hai là yếu tố thần linh: là một cộng đoàn thiêng liêng và là nhiệm thể Chúa
Kitô.
110/ H: Vì sao
Hội Thánh được gọi là Dân Thiên Chúa?
T:
Vì nhờ giao ước mới trong Máu Chúa Kitô, Hội Thánh tiếp tục và hoàn tất những
gì Thiên Chúa đã khởi sự nơi dân Do Thái ngày xưa. (x. Ga 11,47-52)
111/ H: Ơn gọi
của Dân Thiên Chúa là gì?
T:
Ơn gọi của Dân Thiên Chúa là tham dự vào chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế
của Chúa Kitô, tức là thờ phượng Thiên Chúa, loan báo Tin Mừng cứu độ và phục
vụ mọi người.
112/ H: Vì sao
gọi Hội Thánh là nhiệm thể Chúa Kitô?
T:
Vì mọi người trong Hội Thánh đều nhờ Chúa Thánh Thần mà được liên kết với Chúa
Kitô là Đầu và hiệp nhất với nhau như các chi thể hợp thành Thân Thể và liên
kết với Đầu.
113/ H: Vì sao
gọi Hội Thánh là Hiền Thê của Chúa Kitô?
T:
Vì Chúa Kitô đã yêu thương Hội Thánh đến nỗi đổ máu ra thanh tẩy và làm cho Hội
Thánh thành người mẹ sinh ra tất cả các con cái Thiên Chúa.
114/ H: Vì sao gọi Hội Thánh là đền thờ của Chúa Thánh
Thần?
T:
Vì Chúa Thánh Thần luôn ở trong Hội Thánh
như linh hồn của nhiệm thể. Người không ngừng xây dựng, thánh hóa và đổi mới
Hội Thánh bằng các ân sủng của Người.
¶
¶¶
BÀI 14: TỔ CHỨC HỘI
THÁNH CÔNG GIÁO
I/ LỜI CHÚA
“Cũng như trong một thân thể,
chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì
chúng ta cũng vậy: tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, ai nấy
liên đới với nhau như những bộ phận của một thân thể” (Rm 12,4-5)
“Để chăn dắt và phát triển dân Thiên Chúa luôn mãi, Chúa Giêsu Kitô đã
thiết lập các chức vụ khác nhau trong Hội Thánh, hàu mưu ích cho toàn thân.
Thực vậy, các thừa tác viên sử dụng các quyền bính thiêng liêng mà phục vụ anh
em mình”(GH 18)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Hội
Thánh công giáo vừa thiêng liêng vừa hữu hình. Phần hữu hình ai cũng có thể
thấy được. Đó là một tổ chức, nghĩa là một tập hợp người có những chức năng
nhất định với cơ cấu và phương thức hoạt động vì những quyền lợi chung, và nhằm
một mục đích chung.
Trong tổ chức Hội
Thánh, mọi người đều được gọi là Kitô hữu hay tín hữu. Kitô hữu là những người
được tháp nhập vào Chúa Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy, làm thành dân Thiên Chúa.
“Giữa các tín hữu có các thừa tác viên có chức thánh gọi là giáo sĩ, còn các người
khác gọi là giáo dân. Trong cả hai thành phần vừa kể, có những tín hữu tận hiến
cho Thiên Chúa cách đặc biệt trong các Hội Dòng tận hiến được gọi là tu sĩ”
(Giáo Luật 207).
Tuy nhiên, cơ cấu
phẩm trật trong Hội Thánh không như các tổ chức xã hội ngoài đời “Hễ ai làm lớn thì lấy quyền mà cai trị dân”
(Mt 20,25). Cơ cấu của Hội Thánh có Chúa Kitô là Đầu, là trung tâm điểm, còn
các thành phần khác giống như những vòng tròn đồng tâm khác nhau, nhưng tất cả
“Đều bình đẳng với nhau về phẩm giá và
hành động. Nhờ sự bình đẳng này, họ cộng tác với nhau để xây dựng thân thể Chúa
Kitô tùy theo đều kiện và chức vụ riêng từng người” (Giáo Luật 208).
III/ BÀI HỌC
115/ H: Tín hữu
công giáo là những ai?
T: Đó là những người tin vào Chúa Kitô, đã lãnh nhận
bí tích Rửa Tội và hiệp thông với Đức Giáo Hoàng. Mọi tín hữu đều bình đẳng với
nhau về phẩm giá và hoạt động, đều phải góp phần xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô.
116/ H: Hội Thánh công giáo gồm có những thành phần nào?
T:
Hội Thánh công giáo gồm có: Giáo sĩ, tu sĩ,
và giáo dân.
117/ H: Hàng
giáo sĩ gồm những ai?
T:
Hàng giáo sĩ gồm có Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các Linh Mục và Phó Tế.
118/ H: Đức Giáo
Hoàng là ai?
T:
Đức Giáo Hoàng là Đấng kế vị Thánh Phêrô, vừa làm Giám Mục Rôma, vừa là thủ
lãnh Giám Mục đoàn, đại diện Chúa Kitô để chăn dắt Hội Thánh toàn cầu. (x. Lc
22,32; Ga 21,17)
119/ H: Các Giám
Mục là ai?
T:
Các Đức Giám Mục là những Đấng kế vị các Tông đồ để qui tụ dân Chúa và cai quản
Giáo Phận (Hội Thánh địa phương) và cùng với Đức Giáo Hoàng phục vụ Hội Thánh toàn
cầu. (x. Lc 24,45-48; Cv 1,8)
120/ H: Các Linh
Mục là ai?
T:
Các Linh Mục là những người được tuyển chọn giữa các tín hữu để tham dự vào
chức tư tế thừa tác của Giám Mục và chia sẻ sứ mạng với Ngài. (x. Cv 20,28)
121/ H: Các Phó
Tế là ai?
T:
Các Phó Tế là những thừa tác viên được truyền chức thánh để lo các công tác
phục vụ trong Hội Thánh.
122/ H: Các thừa
tác viên trong Hội Thánh có những nhiệm vụ nào?
T:
Có ba nhiệm vụ này:
+
Một là giảng dạy
+
Hai là thánh hóa
+
Ba là cai quản dân Chúa.
123/ H: Tu sĩ là
ai?
T:
Là những Kitô hữu muốn bước theo Chúa Giêsu cách triệt để, nên tự nguyện khấn
khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục theo những hình thức đã được Hội Thánh phê
chuẩn.
124/ H: Giáo dân
là ai?
T:
Giáo dân là các tín hữu, không có chức thánh, không ở trong bậc tu trì. Nhờ bí
tích Rửa Tội, họ được gia nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô, được dự phần theo cách
thức của họ vào chức Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế của Chúa Kitô.
125/ H: Sứ mệnh
riêng của người giáo dân là gì?
T:
Sứ mệnh riêng của người giáo dân là tìm kiếm nước Thiên Chúa và làm việc tông
đồ giữa trần gian trong những công việc thế tục.
¶
¶¶
BÀI 15: ĐẶC TÍNH CỦA HỘI THÁNH
I/ LỜI CHÚA
“Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng đá, trên tảng đá
này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi ”
(Mt 16,8)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Hội Thánh tiên khởi
đã dùng bốn đặc tính được tuyên xưng trong kinh Tin Kính để tự phân biệt với
các giáo phái khác. Bốn đặc tính ấy là: Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo Và Tông
Truyền (x.GH 8). Những đăc tính này là hồng ân Chúa Thánh Thần
thông ban và chỉ có thể hiểu biết trọn vẹn nhờ đức tin.
1/ Hội Thánh Duy
Nhất
Hội
Thánh duy nhất là do nguồn gốc sâu xa của Hội Thánh. Nguồn gốc đó là Thiên Chúa
duy nhất trong Ba Ngôi. Vì thế “Hội Thánh
xuất hiện như một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần” (GH 4).
Hội
Thánh duy nhất nhưng có sự đa dạng trong hội thánh: đa dạng về các hồng ân,
chức năng, hoàn cảnh và cách sống
Sự
đa dạng này làm cho Hội Thánh thêm phong phú, và Đức Mến là mối dây liên kết
tuyệt hảo. Đồng thời, sự duy nhất trong đa dạng được nâng đỡ và bảo vệ bằng sự
hiệp thông hữu hình:
-
Tuyên xưng cùng một đức tin
-
Cử hành chung việc phụng vụ
-
Sự kế nhiệm Tông Truyền
Trong lịch sử Hội Thánh,
do tội lỗi của con người, đã có những chia rẽ và đoạn tuyệt, làm tổn thương sự
duy nhất của Thân Mình Đức Kitô: Những lạc giáo, bội giáo, ly giáo.
2. Hội Thánh
Thánh Thiện
Hội Thánh được tuyên
xưng là Thánh Thiện vì “Chúa Kitô đã yêu thương Hội Thánh như hiền thê
mình và đã hiến thân để thánh hóa Hội Thánh, Người kết hợp với Hội Thánh như
Thân Thể Người và ban cho dư đầy ơn Thánh Thần (GH 39)
Nhờ Đức Kitô Hội
Thánh cũng có khả năng thánh hóa. Mọi công việc của Hội Thánh đều hướng đến mục
đích là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con người.
Hội Thánh Thánh Thiện
nhưng lại mang trong mình những tội nhân, vì thế phải sám hối và canh tân liên
lỉ. Mọi người trong Hội Thánh đều được kêu gọi nên thánh, đạt tới sự trọn lành
như Chúa Cha là Đấng trọn lành.
Đức Mến là linh hồn
của sự Thánh Thiện: “Hội Thánh có một
trái tim và trái tim ấy bừng cháy tình yêu” (Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).
3/ Hội Thánh
Công Giáo
Từ “Công giáo”
có nghĩa là phổ quát, toàn vẹn. Hội Thánh là Công Giáo vì:
-
Trong Hội Thánh có Chúa Kitô hiện diện cùng với “Đầy đủ các phương tiện cứu rỗi” (TG 6)
-
Hội Thánh được Chúa Kitô sai đến với toàn thể nhân loại để qui tụ toàn thể nhân
loại dưới quyền Đức Kitô là Đầu.
“Giáo Hội địa
phương” trước hết được hiểu là giáo phận, một cộng đoàn tín hữu
sống hiệp thông trong đức tin và các bí tích, cùng với Giám mục của họ là người
đã được phong chức trong sự kế nhiệm Tông Truyền. Mỗi giáo hội địa phương cũng
là “Công
giáo”.
Các giáo hội địa
phương có tính cách công giáo đầy đủ nhờ hiệp thông với giáo hôi Rôma, được coi
như căn bản và nền tảng vững chắc duy nhất.
4/ Hội Thánh
Tông Truyền
Hội Thánh là Tông
Truyền theo ba ý nghĩa căn bản
-
Một là vì Đức Giêsu thiết lập Hội Thánh kiên vững “Trên nền tảng các Tông Đồ”
(Ep 2,20).
-
Hai là vì Hội Thánh bảo vệ và truyền thông sứ điệp và chứng tá của các Tông Đồ
(Mt 28,19-20).
-
Ba là vì Hội Thánh được giáo huấn, thánh hóa và hướng dẫn nhờ các Đấng Kế Vị
các Tông Đồ.
III/ BÀI HỌC
126/ H: Hội
Thánh công giáo có những đặc tính nào?
T:
Hội Thánh công giáo có bốn đặc tính này: duy nhất, thánh thiện, công giáo và
tông truyền.
127/ H: Vì sao
tuyên xưng Hội Thánh là duy nhất?
T:
Hội Thánh là duy nhất vì: Chúa Kitô chỉ thiết lập một Hội Thánh, gồm những
người được tái sinh trong cùng một phép rửa, liên kết với nhau thành một thân
thể, sống nhờ một thần khí, tuyên xưng một đức tin, thờ phượng một Thiên Chúa
và hướng về một niềm hy vọng là hạnh phúc nước trời.
128/ H: Vì sao
Hội Thánh là thánh thiện?
T:
Hội Thánh là thánh thiện vì:
+ Hội Thánh bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng Chí Thánh.
+
Hội Thánh được thánh hóa bằng Lời Chúa và
các bí tích.
+
Chúa Thánh Thần làm phát sinh trong Hội Thánh nhiều hoa trái thánh thiện.
129/ H: Tại sao
trong Hội Thánh lại có tội nhân?
T:
Vì các thành phần của Hội Thánh chưa đạt tới sự thánh thiện trọn vẹn. Họ được
mời gọi tự thanh tẩy và phải luôn nỗ lực sám hối, canh tân.
130/ H: Vì sao
Hội Thánh là công giáo?
T:
Hội Thánh là công giáo vì:
+
Một là toàn bộ chân lý đức tin đã được ủy thác cho Hội Thánh giữ gìn và loan
truyền.
+
Hai là nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô, Hội
Thánh mang trong mình đầy đủ đầy dư các phương tiện cứu độ.
+
Ba là Hội Thánh được sai đến với mọi dân tộc thuộc mọi thời đại.
131/ H: Vì sao
Hội Thánh có sứ mạng truyền giáo?
T:
Vì:
+
Một là Thiên Chúa muốn cho mọi người được ơn
cứu độ.
+
Hai là Hội Thánh có bổn phận đem chân lý được Chúa trao phó đến cho mọi người.
+
Ba là chính Chúa Kitô, trước khi về trời đã sai các tông đồ đi rao giảng Tin
Mừng cho muôn dân.
132/ H: Vì sao
ta tuyên xưng Hội Thánh là tông truyền?
T:
Hội Thánh là tông truyền vì:
+
Một là Hội Thánh được xây trên nền tảng là
các tông đồ.
+
Hai là Hội Thánh gìn giữ và lưu truyền giáo huấn của các tông đồ.
+
Ba là Hội Thánh vẫn tiếp tục công việc giáo huấn, thánh hóa và hướng dẫn của
các tông đồ qua các Giám Mục là những Đấng kế vị cho đến ngày Chúa Kitô lại
đến.
133/ H: Chúng ta
tiếp nối truyền thống các tông đồ bằng cách nào?
T:
Chúng ta tiếp nối truyền thống các tông đồ
bằng hai cách:
+
Một là hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng, với các Đức Giám Mục là những Đấng kế vị
các tông đồ.
+
Hai là tích cực góp phần vào việc loan báo
Tin Mừng.
¶
¶¶
BÀI 16: HỘI THÁNH CÔNG
GIÁO VIỆT NAM
I/ LỜI CHÚA
“Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta
sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là Đầu... Người làm
cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái” (Ep 4, 15-16)
Trích Thư Chung của
HĐGMVN 1980, số 17 “Cây có cội, nước có
nguồn”. Sức sống của Hội Thánh hôm nay là thành quả của hơn 400 năm hạt giống
Tin Mừng được gieo trồng. Cũng là thành quả của hơn 300 năm cây Đức Tin được
vun xới và phát triển, hơn 300 năm Hội Thánh chia sẻ muôn nỗi thăng trầm của
quê hương, và cũng là hơn 300 năm chan hòa hồng ân Thiên Chúa… Nhìn về quá khứ,
chúng tôi cảm mến sâu sắc bàn tay nhân lành của Thiên Chúa, đã êm ái và mạnh mẽ
hướng dẫn Hội Thánh Người trên đất nước Việt Nam của chúng ta. Chúng tôi biết
ơn công lao của vô vàn tín hữu đã làm sáng tỏ đức tin và lòng yêu nước của mình”
II/ BÀI HỌC
134/ H: Tin Mừng
đã đến Việt Nam từ khi nào?
T:
Từ thế kỷ 16 (1533) nhờ các thừa sai thuộc các dòng tu như: Dòng Tên, Đa-minh,
Phanxicô và Hội thừa sai Paris. Vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam
được nói tới là Inikhu, đã giảng đạo tại làng Ninh Cường và Trà Lũ thuộc tỉnh
Nam Định ngày nay.
135/ H: Các tín
hữu Việt Nam đã đón nhận Tin Mừng như thế nào?
T:
Các tín hữu đã mau mắn đón nhận, nhưng để sống và giữ vững đức tin họ phải rất
mực kiên cường, trải qua nhiều gian lao thử thách và cả bách hại.
136/ H: Người
tín hữu Việt Nam đầu tiên là ai?
T:
Là cụ Đỗ Hưng Viễn, người làng Bồng Trung
tỉnh Thanh Hóa, cụ được rửa tội tại Ma-cao thời vua Lê Anh Tôn.
137/ H: Nhóm tín
hữu đầu tiên đã giúp gì trong việc rao giảng Tin Mừng?
T:
Nhóm tín hữu đầu tiên đã giúp các thừa sai học ngôn ngữ, phong tục Việt Nam và
giảng đạo bằng tiếng Việt Nam.
138/ H: Các thầy giảng đã đóng vai trò nào trong việc
truyền giáo?
T:
Các thầy giảng đã hỗ trợ các thừa sai
rất đắc lực trong việc giảng dạy giáo lý, điều hành và duy trì các cộng đoàn
dân Chúa.
139/ H: Những
chứng nhân đức tin đầu tiên người Việt Nam là ai?
T: Tại miền Bắc (Đàng Ngoài) có anh Phanxicô chết năm
1630 vì làm công việc bác ái nên bị tra tấn và bị giết. Tại miền Nam (Đàng
Trong) có thầy Anrê Phú Yên bị bắt tại nhà linh mục Đắc Lộ và bị chém đầu năm
1644.
140/ H: Các nhà truyền giáo tại Việt Nam đã sống như thế
nào?
T:
Các Ngài đã hy sinh, chấp nhận một nếp sống cực khổ, thiếu thốn tiện nghi, chịu
đựng sự bắt bớ, bị ngược đãi và bị hiểu lầm.
141/ H: Các tập
thể nào đã đóng góp công sức nhiều nhất cho Hội Thánh Việt Nam?
T:
Các tập thể đóng góp công sức nhiều nhất cho Hội Thánh Việt Nam phải kể đến Hội
thừa sai Paris, Dòng Tên, Dòng Đa-minh, Dòng Phanxicô.
142/ H: Ngoài
vai trò của các thừa sai, việc phát triển của Hội Thánh Việt Nam còn nhờ vào ai
nữa?
T:
Còn nhờ vào chính những người Việt Nam đã dâng hiến trọn cuộc sống cho nước
trời, đem Tin Mừng đến khắp nơi và nuôi dưỡng đời sống đức tin cho các anh em
mình, đó là những linh mục và tu sĩ Việt Nam.
143/ H: Những
linh mục đầu tiên người Việt Nam là ai?
T:
Là các linh mục: Giuse Trang và Luca Bền (Đàng Trong) và linh mục Bênêdictô
Hiền, Gioan Huệ (Đàng Ngoài) và được Đức Giám Mục Lam-be đờ La Mốt đặt tay
truyền chức tại Thái Lan.
144/ H: Đức Giám
Mục tiên khởi người Việt Nam là ai?
T:
Vào năm 1933, Hội Thánh Việt Nam có Giám Mục
tiên khởi là Đức Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng.
145/ H: Hàng
Giám Mục Việt Nam được thiết lập năm nào?
T:
Ngày 24/11/1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt
Nam, đánh dấu sự trưởng thành của Hội Thánh Việt Nam sau bốn thế kỷ đón nhận
Tin Mừng.
146/ H: Các tín
hữu chịu gian lao thử thách thế nào?
T:
Những cuộc bách hại đạo trải dài suốt ba thế kỷ của vua quan thời đó, khiến
người tín hữu phải xa lìa làng xóm, lẩn trốn nơi rừng sâu nước độc, hàng trăm
ngàn người bị giết chết vì trung thành giữ vững đức tin.
147/ H: Qua thử
thách đau thương Hội Thánh Việt Nam đã thâu lượm được kết quả nào?
T:
Hội Thánh Việt Nam đã góp phần vào vườn hoa Hội Thánh toàn cầu 117 anh hùng tử
đạo, được tôn phong hiển thánh ngày 19/6/1988. và nhờ dòng máu các anh hùng tử
đạo đổ ra mà hạt giống đức tin đã nảy mầm và phát triển trên quê hương Việt
Nam.
148/ H: Người
tín hữu Việt Nam hôm nay phải sống đức tin như thế nào?
T:
Người tín hữu Việt Nam phải hết lòng cảm tạ Thiên Chúa; cố gắng sống tinh thần
Phúc Âm: yêu thương mọi người, cùng chung xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn
và làm chứng cho Chúa ngay chính trên quê hương mình.
¶
¶¶
BÀI 17: ĐỨC MARIA
TRONG HỘI THÁNH
I/ LỜI CHÚA
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên
cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và
với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1, 14).
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
“Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên
Chúa Cha trong đền thánh, và cũng đau khổ với con mình chết trên thập giá, Đức
Maria đã cộng tác rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng
phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên
cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng Ngài thật là Mẹ chúng ta”
(GH 61)
Thiên Chúa nhân hậu và
khôn ngoan khi muốn thực hiện công việc cứu chuộc thế giới vào thời cuối cùng,
“đã sai Con mình tới, sinh làm con một
người đàn bà” (GL 4,4) và Người Con đó đã “Nhập Thể trong lòng Trinh Nữ Maria”(Kinh Tin Kính). Công việc cứu
chuộc vẫn tiếp tục trong Hội Thánh là Thân Thể Đức Kitô. Trong thân thể này,
Đức Maria có mặt như một chi thể trổi vượt, liên kết mật thiết với Đầu, và hằng
yêu thương bảo vệ hướng dẫn các chi thể khác là các tín hữu, với lòng của người
mẹ hiền.
III/ BÀI HỌC
149/ H: Đức
Maria là ai?
T:
Đức Maria là Đấng đã cưu mang và sinh hạ
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc nhân loại.
150/ H: Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria những đặc ân nào?
T:
Những đặc ân mà Thiên Chúa đã ban cho Đức
Maria là:
1.
Ơn vô nhiễm nguyên tội
2.
Ơn làm Mẹ Thiên Chúa
3.
Ơn trọn đời Đồng Trinh
4.
Ơn hồn xác lên trời
151/ H: Đức Maria đã cộng tác thế nào trong công trình cứu
độ?
T:
Đức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế nhờ đức
tin, đức cậy, và đức ái, nhất là sự vâng phục để Thánh ý Chúa Cha được thi hành
trọn vẹn nơi Đức Giêsu.
152/ H: Đức
Maria có vị trí nào trong Hội Thánh?
T:
Đức Maria là chi thể trổi vượt và là gương
mẫu sáng ngời của Hội Thánh. Vì Người đã là Mẹ của Đầu nhiệm thể Chúa Giêsu thì
cũng là Mẹ của toàn thân là Hội Thánh.
153/ H: Ta phải
làm gì để tỏ lòng kính mến Đức Mẹ?
T:
Ta nên suy niệm đời sống Đức Mẹ, năng lần chuỗi mân côi, và nhất là noi gương
bắt chước các nhân đức của Ngài. Ta cũng nên siêng năng cầu xin với Đức Mẹ vì
Đức Mẹ rất yêu thương ta, và Thiên Chúa đã muốn dùng tay Đức Mẹ để ban nhiều ơn
lành cho ta.
¶
¶¶
PHẦN II: CỬ HÀNH MẦU
NHIỆM KITÔ GIÁO
BÀI 18: PHỤNG VỤ VÀ BÍ TÍCH
I/ LỜI CHÚA
“Thiên Chúa đã
ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự
là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh
hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15,16).
II/ BÀI HỌC
154/ H: Phụng vụ
là gì?
T:
Phụng vụ là việc tôn thờ chính thức của toàn
thể Hội Thánh để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và thánh hóa con người.
155/ H: Phụng vụ
có quan trọng không?
T:
Phụng vụ rất quan trọng vì những lẽ này:
+
Một là phụng vụ cho ta tham dự vào việc cầu
nguyện của Chúa Kitô, hướng lên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần.
+ Hai là phụng vụ là nguồn mạch sự sống của Hội
Thánh.
+
Ba là phụng vụ nhằm giáo huấn và hoán cải
dân Chúa.
156/ H: Những ai
được cử hành phụng vụ của Hội Thánh?
T: Toàn thể dân Chúa, vì tất cả đều có chức Tư Tế
chung. Tuy nhiên một số tín hữu được tuyển chọn qua bí tích Truyền Chức Thánh
với tư cách tư tế thừa tác để cử hành phụng vụ nhân danh Chúa Kitô và Hội
Thánh.
157/ H: Trong
các sinh hoạt của Hội Thánh, việc cử hành phụng vụ nào được coi là quan trọng
nhất?
T:
Ngày Chúa Nhật là quan trọng nhất vì là ngày của Chúa, ngày Đức Kitô đã Phục
Sinh, vì thế ngày Chúa Nhật là nền tảng và trung tâm của cả năm phụng vụ.
158/ H: Năm
phụng vụ là gì?
T:
Năm phụng vụ là thời gian Hội Thánh cử hành các Mầu nhiệm Chúa Kitô, từ Mầu
nhiệp Nhập Thể đến Mầu nhiệm Cứu Chuộc diễn ra hàng năm để tưởng nhớ việc Ngôi
Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người, đến cuộc khổ nạn, sự phục sinh và lên trời
để hoàn tất công trình cứu chuộc.
159/ H: Năm
phụng vụ được tổ chức thế nào?
T:
Năm phụng vụ được tổ chức thành mùa. Khởi
đầu là Mùa Vọng, rồi Mùa Giáng Sinh, Mùa Chay, Mùa Phục Sinh và Mùa Thường
Niên. Cử hành năm phụng vụ Hội Thánh giúp ta sống Mầu nhiệm Chúa Kitô đặc biệt
là Mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc mà trọng tâm là hai ngày lễ: Mừng Chúa Giáng
Sinh và Mừng Chúa Phục Sinh.
160/ H: Ta phải
tham dự phụng vụ thế nào?
T:
Ta phải tham dự phụng vụ cách ý thức, linh động, đầy đủ và hữu hiệu.
161/ H: Bí tích
là gì?
T:
Bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng do Chúa Giêsu thiết lập và được
trao lại cho Hội Thánh để ban sự sống thần linh cho ta.
162/ H: Có mấy
bí tích?
T:
Có bảy bí tích:
1.
Bí tích Rửa Tội
2.
Bí tích Thêm Sức
3.
Bí tích Thánh Thể
4.
Bí tích Hòa Giải
5.
Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân
6.
Bí tích Truyền Chức Thánh
7.
Bí tích Hôn Phối
163/ H: Vì sao
gọi là bí tích đức tin?
T:
Vì khi lãnh nhận các bí tích, ta phải có lòng tin, và nhờ các bí tích, đức tin
của ta càng thêm mạnh mẽ và vững chắc hơn.
164/ H: Ai cử
hành các bí tích?
T:
Hội Thánh cử hành các bí tích với tư cách là cộng đoàn tư tế của Chúa Kitô
165/ H: Các bí
tích có cần thiết để được cứu độ không?
T:
Đối với các tín hữu, các bí tích cần thiết để được ơn cứu độ, vì chính Chúa
Kitô hành động nơi các bí tích, và Chúa Thánh Thần làm cho những người lãnh
nhận nên giống Con Thiên Chúa.
166/ H: Cần có những điều kiện nào để lãnh nhận các bí
tích?
T:
Cần có những điều kiện này:
1.
Phải đón nhận và học hiểu lời Chúa
2.
Phải có đức tin và thật lòng ước muốn
167/ H: Các bí
tích ban cho ta những ơn gì?
T:
Các bí tích ban cho ta ơn thánh hóa và ơn trợ giúp.
168/ H: Ơn thánh
hóa là gì?
T:
Ơn thánh hóa là sự sống siêu nhiên, sự sống của Chúa Ba Ngôi thông ban cho ta,
làm ta nên giống Chúa Kitô, nên con hiếu thảo và đáng hưởng gia nghiệp hạnh
phúc trên trời.
169/ H: Ơn trợ
giúp là gì?
T:
Là sức mạnh Chúa ban để tăng thêm ơn thánh hóa, giúp ta làm lành lánh dữ, chu
toàn bổn phận trong bậc sống và khi mắc tội thì giúp ta ăn năn trở lại.
170/ H: Những bí
tích nào ban ơn thánh hóa?
T: Bí tích Rửa Tội và Hòa Giải ban ơn thánh hóa. Còn
năm bí tích kia chỉ tăng thêm ơn thánh hóa mà thôi. Cho nên ai sạch tội trọng
mới được lãnh năm bí tích ấy.
171/ H: Những bí
tích nào chỉ được lãnh một lần mà thôi?
T:
Có ba bí tích này:
1. Bí tích Rửa Tội
2. Bí tích Thêm Sức
3. Bí tích Truyền
Chức Thánh
Vì
ba bí tích ấy in vào linh hồn dấu ấn thiêng liêng không thể xóa được.
¶
¶¶
BÀI 19: BÍ TÍCH RỬA TỘI
I/ LỜI CHÚA
“Thầy đã được
trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 16-20)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Bí Tích Thánh Tẩy là
bí tích đầu tiên trong hành trình gia nhập Kitô giáo. Đời sống Kitô hữu chỉ
thực sự bắt đầu với Thánh Tẩy. Bởi vì bí tích Thánh Tẩy là nền tảng của toàn bộ
đời sống Kitô giáo, là cửa ngỏ dẫn vào đời sống thần linh và các bí tích khác.
III/ BÀI HỌC
172/ H: Bí tích
Rửa Tội là gì?
T:
Là bí tích Chúa Giêsu đã lập để ta được tái sinh vào đời sống mới bởi nước và
Chúa Thánh Thần.
173/ H: Bí tích
Rửa Tội được thực hiện qua dấu chỉ nào?
T:
Qua việc đổ nước trên đầu và đọc lời rửa tội nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
174/ H: Bí tích
Rửa Tội đem lại cho ta những ơn nào?
T:
Bí tích Rửa Tội đem lại cho ta những ơn này:
+
Một là được tha tội nguyên tổ và mọi tội riêng ta đã phạm, cùng mọi hình phạt
do tội gây ra.
+
Hai là được sinh lại vào đời sống mới, trở nên con cái Thiên Chúa, chi thể Chúa
Kitô và đền thờ Chúa Thánh Thần.
+
Ba là được gia nhập vào Hội Thánh là thân
thể Chúa Kitô.
+
Bốn là được ghi vào trong linh hồn ta một dấu ấn thiêng liêng vĩnh viễn, để dự
phần vào chức Tư Tế của Chúa Kitô.
175/ H: Nhờ bí
tích Rửa Tội, ta được dự phần vào những chức vụ nào của Chúa Kitô?
T: Ta được dự phần vào chức vụ tế lễ, rao giảng Lời Chúa và sắp đặt mọi sự
trần thế theo ánh sáng Tin Mừng
176/ H: Bí tích Rửa Tội có cần cho ta được ơn cứu độ
không?
T:
Rất cần, vì Chúa Giêsu đã nói: “Ai không sinh lại bởi Nước và Thánh Thần, thì
chẳng được vào Nước Thiên Chúa” (Ga 3,5)
177/ H: Những
người chết mà chưa lãnh nhận bí tích Rửa Tội có thể được cứu độ không?
T:
Những người chết chưa lãnh nhận bí tích Rửa Tội có thể được cứu độ trong ba
trường hợp này:
+
Một là những người đã chết vì đạo Chúa
+
Hai là những người có lòng ước ao làm Con Chúa nhưng chưa có điều kiện lãnh
nhận bí tích Rửa Tội.
+
Ba là những người chưa biết Tin Mừng và Hội
Thánh Chúa nhưng đã theo tiếng lương tâm mà sống ngay lành.
178/ H: Những ai
được quyền cử hành bí tích Rửa Tội?
T:
Thông thường thì do Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, nhưng khi khẩn cấp thì mọi
người đều có quyền và có bổn phận cử hành bí tích ấy, miễn làm làm theo cách
thức và ý muốn của Hội Thánh.
179/ H: Người
đến tuổi khôn muốn lãnh nhận bí tích Rửa Tội thì phải làm gì?
T:
Phải có lòng tin và ước ao, phải học biết giáo lý và tham dự những nghi thức
chuẩn bị gia nhập Kitô giáo.
180/ H: Có cần
Rửa Tội cho các trẻ sơ sinh không?
T:
Từ xa xưa, Hội Thánh đã ban bí tích Rửa Tội cho các trẻ sơ sinh, vì đây là một
ân huệ Chúa ban và các em được Rửa Tội trong đức tin của Hội Thánh.
181/ H: Phải Rửa
Tội thế nào?
T:
Phải lấy nước lã đổ trên đầu kẻ lãnh nhận bí tích Rửa Tội, vừa đổ nước vừa đọc
rằng: “Tôi rửa ông (hoặc bà, anh, chị, em, con, cháu...) nhân danh Cha và Con
và Thánh Thần”
182/ H: Người lãnh
nhận bí tích Rửa Tội thề hứa những gì?
T:
Thề hứa từ bỏ ma quỉ, xa lánh tội lỗi, tin kính Thiên Chúa Ba Ngôi và sống xứng
đáng là con cái Thiên Chúa trong Hội Thánh.
183/ H: Người đỡ
đầu Rửa Tội có trách nhiệm gì?
T:
Có trách nhiệm nêu gương sáng và dẫn dắt người tín hữu mới sống xứng đáng là
người công giáo.
184/ H: Tại sao
người ta lấy tên một vị Thánh để đặt tên cho một người khi lãnh nhận bí tích
Rửa Tội?
T:
Đặt tên Thánh cho một người khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội để chỉ người đó từ
nay thuộc về gia đình Dân Thánh Chúa, đồng thời có một vị Thánh làm bổn mạng để
cầu bầu và noi gương.
¶
¶¶
BÀI 20: BÍ TÍCH THÊM SỨC
I/ LỜI CHÚA
“Và khi ông Phaolô đặt tay
trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri”
II/ TRÌNH BÀY
NỘI DUNG GIÁO LÝ
“Nhờ bí tích Thêm Sức, tín hữu
gắn bó với Hội Thánh cách hoàn hảo hơn, và được dư đầy sức mạnh đặc biệt của
Chúa Thánh Thần, do đó họ càng có bổn phận khẩn thiết hơn phải loan truyền và
bảo vệ Đức Tin bằng lời nói và việc làm, như những chứng nhân đích thực của
Chúa Kitô” (GH 11).
Cũng như sự sống tự
nhiên của thân xác, sự sống thần linh của người Kitô hữu do phép Thánh Tẩy, cần
lớn lên và đạt tới mức trưởng thành. Bí tích Thêm Sức được coi là bí tích
trưởng thành của đời sống Kitô hữu. Bí tích Thêm Sức củng cố và hoàn tất những
hiệu quả của bí tích Thánh Tẩy. Cả hai bí tích này biệt lập với nhau, nhưng bổ
túc cho nhau và cùng với bí tích Thánh Thể làm nên bộ ba, hoàn thành hành trình
gia nhập Kitô giáo.
III/ BÀI HỌC
185/ H: Bí tích
Thêm Sức là gì?
T:
Là bí tích Chúa Giêsu đã lập để ban Chúa Thánh Thần, giúp người tín hữu sống bí
tích Rửa Tội hoàn hảo hơn, liên kết mật thiết với Hội Thánh và được thêm sức
mạnh mà làm chứng cho Chúa Kitô.
186/ H: Bí tích Thêm Sức được thực hiện qua những dấu chỉ
nào?
T: Qua việc đặt
tay cầu nguyện và xức dầu thánh, cùng với lời đọc rằng: “Hãy lãnh nhận ấn tín
ơn Chúa Thánh Thần”.
187/ H: Những ai
có quyền ban bí tích Thêm Sức?
T:
Chỉ có các Giám Mục là những người kế vị các tông đồ mới có quyền ban bí tích
Thêm Sức. Nhưng trong trường hợp khẩn cấp thì bất cứ linh mục nào cũng đều có
nhiệm vụ ban bí tích này. (GL 883,3)
188/ H: Bí tích
Thêm Sức cần thiết như thế nào?
T:
Bí tích Thêm Sức rất cần để hoàn tất ân sủng của bí tích Rửa Tội và việc gia
nhập Hội Thánh Chúa.
189/ H: Khi ban
bí tích Thêm Sức thì cử hành những nghi thức nào?
T:
Khi ban bí tích Thêm Sức, vị chủ lễ làm những nghi thức này:
+
Một là đặt tay trên đầu thỉnh viên và cầu nguyện Chúa Thánh Thần ngự xuống.
+
Hai là xức dầu trên trán và đọc: “... Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần”
+
Ba là chúc bình an
190/ H: Trong lời cầu nguyện Thêm Sức, Hội Thánh xin Chúa
Thánh Thần ban cho người lãnh nhận những ơn gì?
T:
Hội Thánh xin Chúa Thánh Thần ban cho những ơn quen gọi là bảy ơn Chúa Thánh
Thần:
1.
Ơn khôn ngoan
2.
Ơn hiểu biết
3.
Ơn thông minh
4.
Ơn biết lo liệu
5.
Ơn sức mạnh
6.
Ơn đạo đức
7.
Ơn biết kính sợ Thiên Chúa
191/ H: Những ai
được lãnh nhận bí tích Thêm Sức?
T: Những người đã được rửa tội và đến tuổi khôn, sạch
tội trọng, học biết giáo lý đầy đủ, nhất là về bí tích Thêm Sức, và quyết sống
đúng bổn phận người tín hữu.
192/ H: Khi lãnh
nhận bí tích Thêm Sức có cần người đỡ đầu không?
T:
Cần có người đỡ đầu để nâng đỡ, hướng dẫn trong việc giữ đạo và hoạt động tông
đồ. Nên chọn người đã lãnh bí tích Thêm Sức gương mẫu đạo đức, có thể chính
người đỡ đầu Rửa Tội, người này sẽ đặt tay trên vai người mình đỡ đầu trong khi
cử hành nghi thức.
193/ H: Khi lãnh
nhận bí tích Thêm Sức, ta có những bổn phận nào?
T:
Có ba bổn phận này:
+
Một là can đảm thực hành Lời Chúa dạy để làm chứng cho Chúa Kitô trong cuộc
sống thường ngày.
+ Hai là góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Tin
Mừng
+
Ba là tích cực bênh vực và truyền bá đức tin
cho mọi người.
¶
¶¶
BÀI 21: BÍ TÍCH THÁNH THỂ
I/ LỜI CHÚA
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn
đời và bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”
(Ga 6,51)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
“Trong bữa tiệc sau
hết, đêm bị nộp, Đấng cứu chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ ơn bằng Mình Máu
Người, để nối dài Hy Tế Khổ Giá qua các thời đại, cho tới khi Người lại đến, và
để trao cho Hội Thánh, hiền thê yêu quí của Người, việc tưởng niệm sự chết và
sống lại của Người. Đó là bí tích Tình Yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái.
Bữa tiệc Vượt Qua trong đó Chúa Giêsu được tiếp nhận như lương thực, tâm hồn
được tràn đầy ân sủng, và ta có đảm bảo được vinh quang tương lai”. (Pv 47)
III/ BÀI HỌC
194/ H: Bí tích
Thánh Thể là gì?
T:
Là bí tích Chúa Giêsu đã lập để tiếp tục lễ hy sinh trên thánh giá và để ban
Mình Máu Người dưới hình bánh rượu làm của nuôi linh hồn ta.
195/ H: Chúa
Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể khi nào?
T:
Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể
trong bữa tiệc ly với các môn đệ trước khi Người đi chịu chết.
196/ H: Chúa
Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể thế nào?
T:
Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói : “Tất cả các
con cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con”; rồi Người cầm lấy
chén rượu, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói : “Tất cả các con cầm lấy mà
uống, này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho
các con và mọi người được tha tội, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
197/ H: Vì sao
bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của toàn thể đời sống người tín
hữu?
T:
Vì bí tích Thánh Thể chứa đựng tất cả kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, là
chính Đức Kitô, Chiên Vượt Qua, Bánh ban sự sống cho nhân loại.
198/ H: Trong
thánh lễ khi nào bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giêsu?
T:
Khi linh mục đọc lời truyền phép thì nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, bánh và
rượu trở nên Mình Máu Chúa Giêsu.
199/ H: Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể thế nào?
T:
Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh rượu cách thực sự toàn vẹn cùng với linh
hồn và thần tính của Người.
200/ H: Chúa
Giêsu ban quyền cho ai được cử hành bí tích Thánh Thể?
T:
Chúa Giêsu ban quyền cho các tông đồ và những người kế tiếp các Ngài trong chức
linh mục khi nói rằng : “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
201/ H: Ta phải
thờ kính Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể thế nào?
T:
Ta phải siêng năng kính viếng, thờ lạy Thánh Thể, giữ sự nghiêm trang đứng đắn
trong nhà thờ, nhất là tham dự thánh lễ và rước lễ.
¶
¶¶
BÀI 22: THÁNH LỄ
I/ LỜI CHÚA
“Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, trao cho các ông và nói : “Đây
là Mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”
(Lc 22,19)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
“Điều tôi đã nhận
lãnh từ Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: Trong đêm bị nộp, Đức Giêsu cầm
lấy bánh, dâng lời chúc tụng, tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà
ăn…đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy”. Cũng thế, cuối bữa
ăn, Người nâng chén và nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập giao ước
mới: mỗi khi uống anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy”. Thật
vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan
truyền Chúa đã chịu chết. Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh và uống Chén của Chúa cách
bất xứng, thì cũng phạm đến Mình Máu Chúa” (1Cr 11,23-27).
Trong Thánh Lễ, Đức
Giêsu dâng Mình lên Thiên Chúa Cha làm lễ vật giao hòa, và ban Mình làm lương
thực nuôi sống các tín hữu. Thánh lễ vừa là hiến tế vừa là tiệc Thánh.
III/ BÀI HỌC
202/ H: Thánh lễ
là gì?
T:
Thánh lễ là cuộc tưởng niệm Lễ Vượt Qua của Chúa Kitô, là tái diễn lại hy lễ
Người dâng lên Chúa Cha trong phụng vụ của Hội Thánh.
203/ H: Hội
Thánh dâng Thánh lễ vì những ý nào?
T:
Hội Thánh dâng lễ vì những ý này:
+
Một là để tưởng niệm hy tế của Chúa Kitô dâng trên thập giá xưa.
+
Hai là để cảm tạ và ngợi khen Chúa Cha vì các ơn huệ Người ban cho loài người.
204/ H: Thánh lễ
có mấy phần?
T:
Thánh lễ có hai phần chính :
+
Một là phụng vụ Lời Chúa
+
Hai là phụng vụ Thánh Thể
Hai phần này liên kết
chặt chẽ với nhau làm thành một hành vi phụng tự duy nhất. Thật vậy, Thánh lễ
là bàn tiệc gồm Lời Chúa và Thánh Thể, nơi đây các tín hữu được giáo huấn và bổ
dưỡng.
205/ H: Phần
phụng vụ Lời Chúa gồm những gì?
T:
Phần chính yếu của phụng vụ Lời Chúa là các bài đọc trích từ Kinh Thánh, với
những bài Thánh ca kèm theo, còn bài giảng, lời tuyên xưng đức tin (Kinh Tin
Kính) và lời nguyện giáo dân có mục đích khai triển và kết thúc phần phụng vụ
Lời Chúa.
206/ H: Phần
phụng vụ Thánh Thể gồm những gì?
T:
Phần phụng vụ Thánh Thể gồm:
+
Dâng lễ: chuẩn bị lễ vật mà trong giây lát nữa sẽ trở thành Mình và Máu Chúa
Kitô.
+
Kinh tạ ơn (kinh nguyện Thánh Thể) là trung tâm và đỉnh điểm của Thánh Lễ.
+
Những nghi thức hiệp lễ: kinh lạy cha, chúc bình an, bẻ bánh, kinh lạy chiên
Thiên Chúa, rước lễ và lời nguyện hiệp lễ.
207/ H: Ta phải
dự Thánh Lễ thế nào?
T:
Ta phải tích cực tham gia Thánh lễ từ đầu đến cuối mới được coi là chu toàn
luật buộc. Đồng thời phải hợp lòng, hợp ý với chủ tế và cộng đoàn để dâng lễ,
giữ các nghi thức, thưa kinh hay ca hát chung với nhau và rước lễ cho sốt sáng.
208/ H: Muốn
rước lễ thì phải có những điều kiện nào?
T:
Muốn rước lễ thì phải sạch tội trọng, có ý
ngay lành, dọn mình chu đáo và giữ chay một giờ trước khi rước lễ.
209/ H: Ta nên
siêng năng rước lễ thế nào?
T:
Ngoài bổn phận rước lễ mỗi năm ít là một lần vào mùa Phục Sinh, ta nên rước lễ
hằng ngày. Hội Thánh cho phép rước lễ hai lần một ngày khi tham dự hai hoặc
nhiều Thánh lễ trong ngày.
210/ H: Rước lễ
thì được những ơn ích nào?
T:
Ta được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô và Hội Thánh, được tẩy xóa các tội nhẹ,
được lớn lên trong ân sủng và bảo đảm sự sống đời đời.
211/ H: Sau khi
rước lễ ta phải làm gì?
T:
Ta phải cám ơn Chúa đã thương ngự vào linh hồn. Dâng hồn xác và những ước
nguyện cho Chúa. Xin Chúa ban cho ta muôn ơn lành hồn xác.
212/ H: Ta phải
tôn thờ Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể thế nào?
T: Ta phải tỏ lòng tin bằng thái độ cung kính thờ lạy
Chúa đang ngự thật trong bí tích Thánh Thể, khao khát rước Chúa, năng tham dự
Thánh lễ và viếng Thánh Thể.
213/ H: Ta nối
kết Thánh lễ với cuộc sống ta thế nào?
T:
Đến nhà thờ, ta dâng cuộc sống làm của lễ; Khi ra về, ta thực hành Lời Chúa đã
được nghe.
¶
¶¶
BÀI 23: BÍ TÍCH HÒA GIẢI
I/ LỜI CHÚA
“Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con
thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa”(Lc 15,
21).
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Bí Tích Hòa Giải còn
được gọi là bí tích giải tội, bí tích thống hối… Nhưng dù tên gọi nào chăng
nữa, vẫn luôn bao hàm hai nội dung chính yếu: Sự hoán cải của hối nhân và tình
thương tha thứ của Thiên Chúa. Tìm hiểu bí tích hòa giải là cơ hội giúp ta khám
phá tình thương của Thiên Chúa, và cảm nghiệm đó thúc đẩy ta sám hối mỗi ngày
và mọi ngày trong suốt cuộc đời.
Những ai đến lãnh
nhận bí tích hòa giải, đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến
Người. Đồng thời, họ được giao hòa cùng Hội Thánh mà tội lỗi họ đã làm tổn
thương. Hội thánh hằng nỗ lực lấy Đức Ái, gương lành và kinh nguyện để hoán cải
họ.
III/ BÀI HỌC
214/ H: Bí tích
Hòa Giải là gì?
T:
Là bí tích Chúa Giêsu đã lập để tha các tội ta đã phạm từ khi lãnh nhận bí tích
Rửa Tội về sau, cùng giao hòa ta với Chúa và Hội Thánh. Bí tích này còn được
gọi là bí tích Giải Tội hay Thống Hối.
215/ H: Chúa
Giêsu đã lập bí tích Hòa Giải khi nào?
T:
Chúa Giêsu đã lập bí tích này vào chiều ngày Phục Sinh, khi hiện đến với các
tông đồ và nói : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì
người ấy được tha, anh em cầm buộc ai thì người đó bị cầm buộc” (Ga 20,22-23).
216/ H: Những ai
trong Hội Thánh có quyền tha tội?
T:
Các Giám mục và những linh mục được quyền
giải tội đều có thể tha thứ các tội lỗi nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
217/ H: Những ai cần lãnh nhận bí tích Hòa Giải?
T:
Những người đã phạm tội trọng thì cần lãnh nhận bí tích Giải Tội; còn ai chỉ
mắc tội nhẹ mà lãnh nhận bí tích này thì cũng được nhiều ơn ích thiêng liêng.
218/ H: Muốn
lãnh nhận bí tích Hòa Giải thì phải làm gì?
T:
Phải làm bốn việc này
+
Một là xét mình
+
Hai là ăn năn tội và dốc lòng chừa
+
Ba là xưng tội
+
Bốn là làm việc đền tội
219/ H: Xét mình
là gì?
T:
Xét mình là thành tâm nhớ lại các tội đã phạm từ lần xưng tội trước cho đến bây
giờ, mỗi tội phạm mấy lần và những trường hợp làm cho tội nặng hơn.
220/ H: Ăn năn
tội và dốc lòng chừa là gì?
T:
Là thật lòng thống hối vì đã phạm tội mất lòng Chúa và quyết tâm chừa cải.
221/ H: Có cách
nào giúp ta ăn năn tội không?
T:
Có hai cách này:
+
Một là nhớ đến Chúa là Cha nhân từ hằng yêu thương và sẵn sàng tha thứ.
+
Hai là nhớ đến Đức Giêsu đã chịu đau khổ, chịu chết vì tội lỗi ta.
222/ H: Có kinh
nào giúp ta ăn năn tội không?
T:
Có “kinh ăn năn tội”. Ta có thể đọc kinh này cách chậm rãi và dựa vào ý nghĩa
lời kinh mà bày tỏ tâm tình ăn năn sám hối. Trước khi vào tòa xưng tội, ta nên
đọc “kinh cáo mình”.
223/ H: Xưng tội
là gì?
T:
Là tới tòa giải tội, thành tâm thú nhận với linh mục đại diện Chúa Kitô, các
tội mình đã phạm.
224/ H: Phải
xưng tội thế nào?
T:
Phải xưng tội cách thành thật, rõ ràng tất cả các tội trọng chưa xưng, và
khuyên xưng cả các tội nhẹ để sống đẹp lòng Chúa hơn.
225/ H: Khi xưng
tội xong thì phải làm gì?
T:
Phải lắng nghe cha giải tội khuyên bảo và chỉ việc đền tội. Rồi cúi đầu đọc
thầm “kinh ăn năn tội”. Khi nghe linh mục đọc lời tha tội: “Vậy cha tha tội cho
con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” thì làm dấu thánh, rồi thưa “Amen”.
Sau đó cha giải tội nói: “Chúc con về bình an” thì thưa: “Tạ ơn Chúa, cám ơn
cha”. Rồi đi ra mà lo việc đền tội.
226/ H: Đền tội
là gì?
T:
Là làm việc mà cha giải tội chỉ định để tạ lỗi cùng Thiên Chúa, và đền bù, sửa
lại những thiệt hại do tội lỗi gây ra.
227/ H: Trong 4
việc trên việc nào quan trọng nhất?
T:
Việc ăn năn dốc lòng chừa, vì chỉ ai thực lòng ăn năn và quyết tâm chừa cải thì
mới đáng hưởng tình thương của Chúa. (Cả khi không thể xưng tội thì cũng được
Chúa ban ơn tha thứ).
228/ H: Bí tích
Giải Tội đem lại cho ta những ơn ích nào?
T:
Đem lại cho ta những ơn này:
+
Một là được tha thứ và được giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh.
+
Hai là được tha khỏi án phạt đời đời do các
tội trọng gây nên.
+
Ba là được sự bình an trong lòng, và được thêm sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
¶
¶¶
BÀI 24: BÍ TÍCH XỨC
DẦU BỆNH NHÂN
I/ LỜI CHÚA
“Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh
đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa”. (Gc
5,14)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Thánh Kinh viết rằng:
“Mọi sự đều có lúc… có thời để sinh và có
thời để chết”(Gv 3,1-2). Như thế, đau yếu, bệnh tật là dấu hiệu sức khỏe
suy giảm, là đèn báo ngày tận số của kiếp người. Vì thế, đối diện phút lâm
chung, con người cảm nghiệm được giới hạn và bất lực của mình. Chúa Giêsu cảm
thông nỗi niềm sâu xa ấy nên Người thường chữa lành các bệnh nhân. Người còn
lập bí tích xức dầu bệnh nhân để nâng đỡ họ vào phút nguy tử và trao cho Hội
Thánh tiếp tục săn sóc họ.
Bí
tích xức dầu bệnh nhân Chúa Giêsu đã lập để ban ơn nâng đỡ bệnh nhân phần hồn,
phần xác chuẩn bị họ bước về đời sau.
III/ BÀI HỌC
229/ H: Bí tích
Xức Dầu Bệnh Nhân là gì?
T:
Là bí tích Chúa Giêsu đã lập để ban ơn nâng đỡ bệnh nhân và người già yếu về
phần hồn và phần xác.
230/ H: Bí tích
Xức Dầu Bệnh Nhân ban những ơn nào?
T:
Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân ban những ơn này:
+
Một là kết hợp bệnh nhân với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô để sinh ơn ích cho
chính mình và cho Hội Thánh.
+
Hai là ban niềm an ủi và lòng can đảm để biết chịu đựng những đau đớn của bệnh
tật hoặc tuổi già vì lòng yêu mến Chúa.
+
Ba là tha thứ các tội lỗi quên sót hay chưa kịp lãnh bí tích Hòa Giải.
+
Bốn là phục hồi sức khỏe phần xác nếu lợi
ích cho linh hồn.
+
Năm là được bình an giúp bệnh nhân dọn mình
chết lành.
231/ H: Ai có
quyền ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân?
T:
Chỉ có Giám Mục và Linh Mục mới được ban bí
tích này.
232/ H: Nghi
thức Xức Dầu Bệnh Nhân cử hành thế nào?
T:
Sau khi sám hối, cử hành Lời Chúa, cầu nguyện và đặt tay, Linh mục xức dầu
thánh trên trán và hai bàn tay của bệnh nhân, đồng thời đọc lời sức dầu như Hội
Thánh dạy.
233/ H: Khi nào
cần lãnh nhận bí tích Xức Dầu?
T:
Khi người tín hữu lâm cảnh nguy tử vì bệnh nặng hay tuổi già kiệt sức thì nên mời
Linh mục tới ban bí tích Xức Dầu cho họ
234/ H: Được
lãnh nhận bí tích Xức Dầu mấy lần?
T:
Mỗi khi người tín hữu ngã bệnh nặng thì có thể lãnh nhận bí tích này, kể cả khi
đã lãnh nhận bí tích rồi, mà bệnh trở nên nguy kịch hơn.
235/ H: Muốn
lãnh nhận bí tích Xức Dầu thì phải có những điều kiện nào?
T:
Phải có những điều kiện này:
+
Một là đã đến tuổi khôn và ở trong tình trạng tỉnh trí. (x. GL 1007)
+
Hai là nếu không xưng các tội trọng được thì phải thật lòng thống hối ăn năn.
+
Ba là không cố chấp sống trong tình trạng tội lỗi công khai (x. GL 1007)
236/ H: Người
coi sóc bệnh nhân có những bổn phận nào?
T:
Phải lấy lòng bác ái săn sóc phần xác, lấy đức tin an ủi khuyên bảo bệnh nhân
vui lòng chịu đau đớn, để kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và khi cơn
bệnh trở nên trầm trọng thì phải báo tin cho Cha xứ và giúp bệnh nhân dọn mình
lãnh nhận các bí tích.
¶
¶¶
BÀI 25: BÍ TÍCH TRUYỀN
CHỨC THÁNH
I/ LỜI CHÚA
“Đức Giêsu lên núi và gọi đến với Người những
kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập nhóm mười hai, để các ông ở
với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,13-14)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Ngay giữa cộng đoàn
dân Chúa được bí tích thánh tẩy thánh hiến để lãnh nhận chức tư tế chung, Thiên
Chúa còn tuyển chọn một số người lãnh nhận chức tư tế thừa tác, được thánh hiến
nhờ một bí tích riêng là bí tích truyền chức thánh. Chức tư tế thừa tác nhằm
phục vụ cộng đoàn dân Chúa, để các tín hữu phát huy ân sủng của bí tích thánh tẩy. Chúa Kitô là Đầu của Hội Thánh vẫn
luôn luôn hiện diện và hành động qua con người và thừa tác vụ của các linh mục.
III/ BÀI HỌC
237/ H: Bí tích
Truyền Chức Thánh là gì?
T: Là bí tích
Chúa Giêsu đã lập để thông ban chức Linh mục cho những người được tuyển chọn,
hầu phục vụ Dân Chúa bằng việc giảng dạy, tế tự, và điều hành mục vụ tùy theo
cấp bậc mình là Giám Mục, Linh mục hay Phó tế.
238/ H: Chúa Giêsu đã lập bí tích Truyền Chức Thánh khi nào?
T:
Chúa Giêsu đã lập bí tích này trong bữa Tiệc Ly, khi Người nói với các tông đồ
rằng: “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. (Lc 22,19)
239/ H: Ai được
quyền ban bí tích Truyền Chức Thánh?
T:
Chỉ các Giám Mục có quyền ban bí tích này thôi, vì các Ngài đã nhận quyền ấy từ
các tông đồ.
240/ H: Bí tích
Truyền Chức Thánh được cử hành thế nào?
T:
Bí tích Truyền Chức Thánh được cử hành bằng việc đặt tay cùng với lời nguyện
thánh hiến. Bí tích này cũng in dấu ấn thiêng liêng không thể xóa được.
241/ H: Ai được
lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh?
T:
Chỉ những người nam đã được rửa tội, tự nguyện giữ luật độc thân, và được Hội
Thánh công nhận đủ khả năng thi hành chức vụ mới được lãnh nhận bí tích Truyền
Chức Thánh.
242/ H: Trong bí
tích Truyền Chức Thánh, Chúa Giêsu trao cho người lãnh nhận những quyền nào?
T:
Chúa Giêsu trao cho họ ba quyền này:
+
Một là rao giảng Lời Chúa
+
Hai là tế lễ và ban các bí tích
+
Ba là hướng dẫn và phục vụ Dân Chúa
243/ H: Người
tín hữu có bổn phận nào đối với các vị chủ chăn của mình?
T:
Người tín hữu có bổn phận cầu nguyện, tôn trọng, vâng lời các vị chủ chăn trong các điều hợp lẽ đạo, tích cực cộng tác
xây dựng Nước Chúa, đồng thời cũng phải giúp đỡ các Ngài về tinh thần và vật
chất nữa.
¶
¶¶
BÀI 26: BÍ TÍCH HÔN PHỐI
I/ LỜI CHÚA
“Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ
mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. (Ep 5,31)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
“Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống
chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Đời sống chung này được gầy
dựng do Giao Ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân không thể rút lại…
Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu
khác nhau” (MV 48)
Ơn gọi hôn nhân đã
được khắc sâu vào bản tính nhân loại, và ẩn bên trong những khác biệt về văn
hóa, xã hội, vẫn luôn luôn có những đặc tính chung và thiết yếu cho cuộc sống
hôn nhân. Đặc tính ấy là tình yêu bền vững và sự kết hợp bất khả phân ly “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ
mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24); đồng thời mở ra cho sự
sống qua việc sinh sản con cái “Hãy sinh
sôi nẩy nở thật nhiều cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất” (St 1,28)
III/ BÀI HỌC
244/ H: Bí tích
Hôn Phối là gì?
T:
Là bí tích Chúa Giêsu đã lập để kết hợp hai người tín hữu, một nam và một nữ,
thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh, cùng ban ơn lành để họ sống
xứng đáng ơn gọi của mình.
245/ H: Mục đích
hôn nhân công giáo là gì?
T:
Căn cứ vào Kinh Thánh, ta thấy mục đích
chính của hôn nhân công giáo liên quan mật thiết với nhau và được Thiên Chúa ấn
định ngay từ đầu, đó là, trọn đời yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, sinh sản và giáo
dục con cái.
246/ H: Làm thế nào để đôi bạn sống trọn đời yêu thương nhau?
T:
Để sống trọn đời yêu thương nhau, đôi bạn phải:
+ Sống đạo tốt
+ Tôn trọng phẩm giá và quyền lợi chính đáng của bạn mình
+ Dung hợp những khác biệt về tâm
sinh lý trong đời sống vợ chồng.
247/ H: Hôn nhân
công giáo có mấy đặc tính?
T:
Hôn nhân công giáo có hai đặc tính này:
+
Một là sống một vợ một chồng
+
Hai là trung thành yêu thương nhau trọn đời.
Trong hôn nhân công
giáo, vì lý do bí tích, những đặc tính này có sự bền vững đặc biệt.
248/ H: Bí tích Hôn Phối ban cho vợ chồng những ơn ích nào?
T: Bí tích Hôn Phối ban cho vợ chồng ơn biết yêu nhau
như Chúa Kitô yêu Hội Thánh, nhờ đó họ sống trung thành và giúp nhau nên Thánh
trong bậc sống gia đình.
249/ H: Muốn
lãnh nhận bí tích Hôn Phối thì phải có những điều kiện nào?
T:
Phải có những điều kiện này:
+
Một là đã lãnh bí tích Rửa Tội
+
Hai là không mắc ngăn trở bởi luật tự nhiên
và luật Hội Thánh
+ Ba là hiểu biết, về bí tích Hôn Phối và đời sống
gia đình.
+
Bốn là có tự do kết hôn và công khai nói lên sự ưng thuận của mình theo nghi
thức Hội Thánh.
250/ H: Tại sao
gia đình công giáo được gọi là “Hội Thánh Tại Gia”?
T:
Vì cũng như Hội Thánh, gia đình là cộng đoàn ân sủng và cầu nguyện, là trường
dạy các đức tính nhân bản và siêu nhiên, là cộng đoàn truyền giáo.
¶
¶¶
PHẦN III: ĐỜI SỐNG TRONG
ĐỨC KITÔ
BÀI 27: LUẬT LUÂN LÝ
VÀ NHÂN ĐỨC
I/ LỜI CHÚA
“Ta sẽ đặt luật của Ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết trên tim lòng
chúng”. (Gr 31,33)
II/ BÀI HỌC
251/ H: Thiên
Chúa đã ban điều gì để hướng dẫn ta đi trong đường lối Người?
T:
Thiên Chúa đã ban luật luân lý, gồm luật tự nhiên, luật Cựu ước và luật Tân
ước.
252/ H: Luật tự
nhiên là luật nào?
T:
Luật tự nhiên là luật được Thiên Chúa ghi
khắc trong tâm hồn mọi người, ở mọi nơi và mọi thời để giúp lý trí phân biệt
điều thiện, điều ác, quen gọi là tiếng nói của lương tâm hay lương tri.
253/ H: Luật Cựu ước là luật nào?
T:
Luật Cựu ước là luật Thiên Chúa đã ban cho dân Israel qua Môsê tại núi Sinai,
gồm tóm trong Mười Điều Răn, quen gọi là Mười Điều Răn Đức Chúa Trời.
254/ H: Luật Tân
ước là luật nào?
T:
Luật Tân ước là luật đã được Chúa Kitô công bố cách đặc biệt trong bài giảng
trên núi. Luật Tân ước là luật yêu thương, luật ân sủng và tự do.
255/ H: Luật Tân
ước có giá trị như thế nào?
T:
Luật Tân ước kiện toàn luật tự nhiên và luật Cựu ước, đòi hỏi ta phải thay đổi
tận cõi lòng để nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. (x. Mt
5,48)
256/ H: Nhân đức
là gì?
T:
Nhân đức là thói quen tốt và bền vững giúp ta làm sự thiện cách dễ dàng hơn.
257/ H: Có mấy
nhân đức nhân bản?
T:
Có nhiều nhân đức nhân bản, trong đó bốn nhân đức chính là: khôn ngoan, công
bằng, dũng cảm và tiết độ.
258/ H: Đức khôn
ngoan là gì?
T:
Đức khôn ngoan là nhân đức giúp ta nhận rõ điều tốt cần làm và những phương
tiện chính đáng để làm điều tốt ấy.
259/ H: Đức công
bằng là gì?
T:
Đức công bằng là nhân đức giúp ta quyết tâm dành cho Thiên Chúa những gì thuộc
về Thiên Chúa và dành cho người khác những gì thuộc về họ.
260/ H: Đức dũng
cảm là gì?
T:
Đức dũng cảm là nhân đức giúp ta bền lòng bền chí theo đuổi điều thiện dù gặp
nhiều gian nan thử thách.
261/ H: Đức tiết
độ là gì?
T:
Đức tiết độ là nhân đức giúp ta biết tự chủ trước sức quyến rũ của các thú vui
và giữ được chừng mực khi hưởng dùng mọi sự ở đời này.
262/ H: Có kinh
nào giúp ta dễ nhớ những nhân đức phải tập luyện chăng?
T:
Có kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức”
+
Thứ nhất, khiêm nhường chớ kiêu ngạo,
+
Thứ hai, rộng rãi chớ hà tiện,
+
Thứ ba, giữ mình sạch sẽ chớ mê dâm dục,
+
Thứ bốn, hay nhịn chớ hờn giận,
+
Thứ năm, kiêng bớt chớ mê ăn uống,
+
Thứ sáu, yêu người chớ ghen ghét,
+
Thứ bảy, siêng năng việc Đức Chúa Trời chớ
làm biếng.
263/ H: Có mấy
nhân đức đối thần?
T:
Có ba nhân đức đối thần là đức tin, đức cậy
và đức mến.
264/ H: Đức tin
là gì?
T:
Đức tin là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta trao phó trọn bản thân và đời mình cho
Thiên Chúa, cùng đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa đã mặc khải mà Hội Thánh
truyền lại cho ta.
265/ H: Đức cậy
là gì?
T:
Đức cậy là ơn Thiên Chúa ban giúp ta dựa vào sức mạnh Chúa Thánh Thần mà vững
lòng mong đợi hạnh phúc Nước Trời Chúa Giêsu đã hứa ban.
266/ H: Đức mến
là gì?
T:
Đức mến là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và
lại vì Chúa mà yêu thương mọi người như chính bản thân vậy.
267/ H: Ngoài ba
nhân đức đối thần, ta còn được hưởng những ơn nào nữa không?
T:
Ta còn được nâng đỡ bởi bảy ơn Chúa Thánh Thần:
+
Một là ơn khôn ngoan
+
Hai là ơn thông hiểu
+
Ba là ơn thông minh
+
Bốn là ơn biết lo liệu
+
Năm là ơn sức mạnh
+
Sáu là ơn đạo đức
+
Bảy là ơn biết kính sợ Thiên Chúa
¶
¶¶
BÀI 28: MƯỜI ĐIỀU RĂN
ĐỨC CHÚA TRỜI
I/ LỜI CHÚA
“Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và
sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Đức
Giêsu đã tóm lại các bổn phận của con người đối với Thiên Chúa “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi”(Mt 22,37). Trong Mười
Điều Răn Thiên Chúa ban cho Dân Người, thì ba lời đầu trực tiếp nhắc đến bổn
phận đối với Thiên Chúa, và bảy lời sau nhắc tới bổn phận con người đối với
nhau theo ý muốn Thiên Chúa.
III/ BÀI HỌC
268/ H: Mười
Điều Răn Đức Chúa Trời là những điều nào?
T:
Là những điều này:
+
Thứ nhất: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự
+
Thứ hai: Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ
+
Thứ ba: Giữa ngày Chúa Nhật
+
Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ
+
Thứ năm: Chớ giết người
+
Thứ sáu: Chớ làm sự dâm dục
+
Thứ bảy: Chớ lấy của người
+
Thứ tám: Chớ làm chứng dối
+
Thứ chín: Chớ muốn vợ chồng người
+
Thứ mười: Chớ tham của người
Mười điều răn ấy tóm
về hai điều này mà chớ, trước kính mến người trên hết mọi sự, sau lại yêu người
như mình ta vậy. Amen.
269/ H: Ta phải
làm gì đề xứng đáng là con cái Chúa?
T:
Ta phải luôn nhận biết và tuân theo thánh ý Chúa được tỏ lộ qua Mười Điều Răn
Đức Chúa Trời, Sáu Điều Răn Hội Thánh và Lời Chúa dạy trong Phúc Âm.
270/ H: Tội là
gì?
T:
Tội là khi ta lìa bỏ Chúa mà theo loài thụ tạo, bởi cố tình lỗi luật Chúa hay
luật Hội Thánh trong tư tưởng, lời nói, việc làm hoặc ước muốn hay bỏ qua việc
bổn phận phải làm.
271/ H: Có mấy
thứ tội?
T:
Có hai thứ : một là tội trọng, hai là tội nhẹ.
272/ H: Thế nào
là tội trọng?
T:
Tội trọng là cố tình phạm luật Chúa trong những điều quan trọng mà ta kịp suy
biết.
273/ H: Tội
trọng gây hậu quả tai hại thế nào?
T:
Tội trọng phá hủy sự sống siêu nhiên, cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa, và nếu
không hối cải, thì sẽ phải xa cách Thiên Chúa và mất hạnh phúc đời đời.
274/ H: Khi lỡ
phạm tội trọng ta phải làm gì?
T:
Phải thực lòng thống hối và lo liệu đi xưng tội ngay, lại phải dùng mọi phương
thế để không tái phạm nữa
275/ H: Thế nào
là tội nhẹ?
T:
Khi lỗi phạm một điều luật nhẹ hoặc một điều luật nặng nhưng chưa kịp suy biết
đầy đủ hoặc chưa hoàn toàn ưng theo.
276/ H: Tội nhẹ
gây tác hại nào?
T:
Tội nhẹ khiến ta giảm bớt lòng mến Chúa, để hướng chiều về điều xấu và dễ phạm
tội trọng hơn.
277/ H: Năm Điều
Răn Hội Thánh là những điều nào?
T:
Là những điều này
+
Thứ nhất: Dự lễ và kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc.
+
Thứ hai: Xưng tội một năm ít là một lần.
+
Thứ ba: Rước Mình Thánh Chúa trong mùa Phục Sinh
+
Thứ bốn: Giữ chay và kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc
+
Thứ năm: Góp công góp của xây dựng Hội Thánh, tùy theo khả năng của mình.
278/ H: Ngoài
Mười Điều Răn Đức Chúa Trời và Năm Điều Răn Hội Thánh, các tội ta phạm còn
thường do những nết xấu nào?
T:
Thường do bảy nết xấu này, quen gọi là bảy
mối tội đầu:
+
Một là kiêu ngạo
+
Hai là hà tiện
+
Ba là dâm ô
+
Bốn là hờn giận
+
Năm là mê ăn uống
+
Sáu là ghen ghét
+
Bảy là lười biếng
279/ H: Ta phải
có thái độ nào đối với tội lỗi?
T:
Ta phải dứt khoát với tội lỗi, xa tránh dịp
tội, siêng năng xưng tội rước lễ và cố gắng đổi mới đời sống hằng ngày.
¶
¶¶
BÀI 29: ĐIỀU RĂN THỨ NHẤT
THỜ PHƯỢNG VÀ KÍNH MẾN THIÊN CHÚA
I/ LỜI CHÚA
“Nghe đây hỡi Israel : Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta là Đức Chúa duy
nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh
em”(TL6, 4-5)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Bổn phận phải tin
kính, tôn thờ và mến yêu Thiên Chúa là điều răn thứ nhất và quan trọng nhất
trong mười điều răn. Tất cả các điều răn khác đều tùy thuộc vào đó. Nhận biết
và yêu mến Thiên Chúa cũng như tránh làm những điều trái ngược với sự nhận biết
và lòng yêu mến ấy, chính là khởi điểm cho đời sống luân lý của người tín hữu.
III/ BÀI HỌC
280/ H: Điều răn
thứ nhất dạy ta những gì?
T:
Điều răn thứ nhất dạy ta nhận biết và chỉ tôn thờ một Thiên Chúa, cùng biểu lộ
lòng tôn thờ ấy bằng đức tin, đức cậy và đức mến.
281/ H: Ta phải
làm gì để thờ phượng Thiên Chúa?
T: Ta phải tin tưởng, yêu mến, cậy trông, cầu nguyện;
thực hiện những điều đã khấn hứa và luôn dâng lên Thiên Chúa những hy sinh làm
dấu chứng lòng tôn thờ.
282/ H: Ta phải
yêu mến Thiên Chúa như thế nào?
T:
Ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, và mau mắn làm
theo ý Chúa để đáp lại tình Chúa thương ta.
283/ H: Có những
tội nào nghịch cùng điều răn thứ nhất?
T:
Có những tội này:
+
Một là nghi ngờ về đức tin, chối đạo, bỏ đạo
+
Hai là mê tín dị đoan, bói toán ma thuật, tin thờ cầu khấn với loài thụ tạo.
+
Ba là làm biếng đọc kinh, cầu nguyện và học
hỏi Lời Chúa.
284/ H: Khấn hứa
là gì?
T:
Là tự hiến thân cho Thiên Chúa hoặc tự nguyện cam kết với Chúa sẽ làm một sự
việc lành nào đó
285/ H: Ta phải
tôn kính ảnh tượng thế nào cho hợp với điều răn thứ nhất?
T:
Vì Con Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm hữu hình, nên ta có thể dùng ảnh tượng để
hướng lòng về Thiên Chúa cũng như để tôn kính và noi gương các thánh.
286/ H: Để ngày càng lớn lên trong đức tin ta cần phải làm
gì?
T:
Ta cần không ngừng đào sâu giáo lý, siêng năng cầu nguyện và góp phần truyền bá đức tin.
¶
¶¶
BÀI 30: ĐIỀU RĂN THỨ HAI
TÔN KÍNH DANH THÁNH CHÚA
I/ LỜI CHÚA
- “Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dùng lời ca ngợi,
Nào
ta ca ngợi Danh Thánh Chúa đi!
Chúc
tụng Danh Thánh Chúa,
Từ
bây giờ cho đến mãi muôn đời!
Ca
ngợi Danh Thánh Chúa,
từ
rạng đông tới lúc chiều tà!
Chúa
siêu việt trên hết mọi dân,
Vinh
quang người vượt xa trời cao thẳm” (Tv 113, 1-4)
- “Ngươi không được dùng tên Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi mà làm điều bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng tên
Ngài mà làm điều bất xứng” (Dnl 5, 11)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Điều răn thứ hai cũng
thuộc về nhân đức như điều răn thứ nhất, nhưng liên quan đặc biệt đến lời và
các sự Thánh: Không những tôn kính Danh thánh Chúa, mà còn tôn kính tất cả
những người, những vật đã được dâng hiến cho Chúa.
Danh Chúa là thánh.
Thiên Chúa đã bắt đầu mạc khải Danh Ngài cho Môsê (Xh 3,14) và biểu lộ Danh
Ngài trước mặt toàn dân. Khi Ngài cứu họ khỏi Ai Cập (Xh 15, 1). Sau cùng, Danh
của Thiên Chúa chi Thánh được mạc khải và ban tặng cho chúng ta trong Chúa
Giêsu, trong xác thể, với tư cách là Đấng Cứu Độ (Lc 1, 31).
Điều răn thứ hai cấm
lạm dụng danh Thiên Chúa, nghĩa là cấm sử dụng mọi cách bất xứng đối với Danh
của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô, Đức trinh nữ Maria và toàn thể các thánh.
Những tội nghịch với
điều răn thứ hai là: nói phạm thượng, nói những điều căm ghét, than trách,
thách đố nghịch với Thiên Chúa, lạm dụng danh Chúa để phạm tội ác.
III/ BÀI HỌC
287/ H: Điều răn
thứ hai dạy ta những gì?
T:
Điều răn thứ hai dạy ta bổn phận tôn kính Danh Thánh Thiên Chúa, vì Danh Người
là Thánh.
288/ H: Có những
tội nào nghịch cùng điều răn thứ hai?
T:
Có những tội này:
+ Một là kêu tên Chúa vô cớ, như sử dụng cách bất
xứng Danh Thánh Chúa, Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh.
+ Hai là không giữ điều đã nhân danh Chúa mà thề hứa.
+
Ba là nói xúc phạm đến Chúa.
+
Bốn là thề gian.
289/ H: Để tôn vinh Danh Thánh Chúa trong mọi sự ta làm gì?
T:
Ta nên làm dấu thánh giá khi khởi đầu ngày sống, khởi đầu mọi kinh nguyện cũng
như mọi việc làm.
290/ H: Khi nào
mới được lấy Danh Thiên Chúa mà thề?
T:
Chỉ khi có việc thật sự hệ trọng hoặc bề trên đòi buộc thì ta mới được lấy Danh
Thiên Chúa mà thề. Khi đó, buộc ta phải giữ đúng lời thề để tôn trọng danh dự
và uy quyền của Thiên Chúa.
291/ H: Việc đặt
tên thánh khi lãnh nhận bí tích rửa tội có ý nghĩa gì?
T:
Có 2 ý nghĩa này:
+
Một là ta được chính thức có tên trong Hội Thánh
+ Hai là ta có ý xin Đức Mẹ hoặc
các thánh bảo trợ, đồng thời cố gắng noi gương sáng nhân đức của các Ngài.
¶
¶¶
BÀI 31: ĐIỀU RĂN THỨ BA
THÁNH HÓA NGÀY CHÚA NHẬT
I/ LỜI CHÚA
“Ngươi hãy nhớ ngày Sabat, mà coi đó là ngày
thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn
ngày thứ bảy là ngày Sabat kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi
không được làm công việc nào”(Xh 20,8-10)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
“Con hãy nhớ đến ngày lễ nghỉ hàng tuần để thánh
hóa ngày ấy” (Kh 20,8).
Ngày xưa, người Do
Thái nghỉ ngày Sa-bát, ngày thứ bảy cuối
tuần, để kính nhớ Thiên Chúa đã hoàn tất công việc tạo dựng. Từ khi Đức Kitô
sống lại vào ngày đầu tuần các Kitô hữu chọn ngày đầu tuần để mừng cuộc phục
sinh của Chúa và gọi đó là ngày Chúa Nhật, tức ngày của Chúa.
Cử hành bí tích Thánh
Thể ngày Chúa Nhật là trung tâm của đời sống Hội Thánh. Truyền thống này đã có
từ thời các Tông Đồ.
Các
tín hữu buộc tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật và những ngày lễ buộc khác. Cũng có thể
tham dự Thánh Lễ vào chiều ngày áp lễ. Chỉ khi có lý do quan trong mới được
miễn chước.
Trong ngày của Chúa, phải tránh những việc lao động hay
hoạt động ngăn cản việc thờ phượng Chúa, đồng thời nên dành ngày này để vun
trồng đời sống gia đình, văn hóa, xã hội.
III/ BÀI HỌC
292/ H: Điều răn
thứ ba dạy ta những gì?
T:
Điều răn thứ ba dạy ta thánh hóa ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc.
293/ H: Ta phải
làm gì để thánh hóa ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc?
T:
Ta phải dự Thánh lễ, nghỉ việc xác và gia tăng các việc lành như tham dự các
giờ đọc kinh chung, làm việc bác ái tông đồ.
294/ H: Ta phải
tham dự Thánh lễ Chúa Nhật như thế nào để chu toàn luật buộc?
T:
Phải tích cực tham dự Thánh lễ từ đầu đến cuối, tham gia việc đọc kinh, ca hát,
thưa đáp và giữ các nghi thức. Trừ khi vì lý do chính đáng được miễn chuẩn. Còn
nếu ai cố tình bỏ lễ thì mắc tội trọng.
295/ H: Ngày
Chúa Nhật có những ý nghĩa nào?
T:
Có những ý nghĩa này:
+
Một là nhắc nhớ việc sáng tạo mới, được thực hiện nhờ cuộc phục sinh của Chúa
Kitô vào ngày “thứ nhất trong tuần”.
+
Hai là hoàn tất ý nghĩa ngày lễ nghỉ Do Thái và hướng tới sự nghỉ ngơi muôn đời
nơi Thiên Chúa.
296/ H: Luật
buộc nghỉ ngày Chúa Nhật có mang ý nghĩa xã hội nào không?
T:
Luật này là một đóng góp quí báu cho sinh hoạt tinh thần của xã hội loài người,
vì giúp mọi người có thì giờ nghỉ ngơi và chăm lo đời sống gia đình, văn hóa,
xã hội và tôn giáo.
¶
¶¶
BÀI 32: ĐIỀU RĂN THỨ TƯ
THẢO KÍNH CHA MẸ
I/ LỜI CHÚA
“Hỡi kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh
thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ”. Đó là giới răn có kèm theo lời hứa : “Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên
mặt đất này” (Ep 6,1-3)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
“Ai yêu người thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13,8). Tình yêu ấy trước
hết phải dành cho tổ tiên, ông bà cha mẹ là những người có công sinh thành
dưỡng dục ta. Vì thế, mở đầu cho 7 điều răn về yêu người, điều răn thứ tư dạy:
phải thảo kính cha mẹ. Đây cũng là đòi hỏi rất phù hợp với truyền thống đạo đức
của dân tộc Việt Nam. Chúng ta tìm mối liên hệ, trách nhiệm và bổn phận giữa
cha mẹ và con cái. Đồng thời cũng gián tiếp dạy về bổn phận hai chiều giữa anh
chị em và giữa các quan hệ trong gia tộc, ở nhà trường, ngoài xã hội, trong Hội
Thánh. Khi gia đình thực sự là cộng đồng tình yêu và sự sống, gia đình sẽ đóng
góp rất nhiều cho việc cho việc xây dựng xã hội bình an hạnh phúc.
III/ BÀI HỌC
297/ H: Điều răn
thứ tư dạy ta những gì?
T:
Điều răn thứ tư dạy ta sống đúng chức phận mình trong gia đình, Hội Thánh và xã
hội, mà trước hết là phải thảo kính cha mẹ cho tròn chữ hiếu.
298/ H: Tại sao
ta phải thảo kính cha mẹ?
T:
Vì cha mẹ có công sinh thành, dưỡng dục ta, và thay quyền Chúa để chăm sóc phần
hồn phần xác cho ta.
299/ H: Cha mẹ
có bổn phận nào đối với con cái?
T:
Cha mẹ có bổn phận nuôi dưỡng, yêu thương
dạy dỗ, và làm gương sáng cho con cái noi theo về mặt nhân bản cũng như đức
tin; đồng thời, phải hướng dẫn con cái trong việc lựa chọn nghề nghiệp và bậc
sống của mình.
300/ H: Con cái
có bổn phận nào trong gia đình?
T:
Phải biết trọng kính, vâng lời cha mẹ và người trên của mình. Lại phải tận tình
giúp đỡ các ngài nhất là khi ốm đau, già nua, túng thiếu.
301/ H: Ta còn
phải tôn kính và vâng lời ai nữa không?
T:
Ta còn phải tôn kính và vâng lời các vị lãnh đạo tôn giáo và xã hội.
302/ H: Có những tội nào nghịch cùng điều răn thứ bốn không?
T:
- Khi con cái, người dưới có lời nói, thái độ, việc làm bất kính, khinh dể,
ruồng rẫy, không vâng lời giúp đỡ cha mẹ và bề trên.
- Khi
cha mẹ không lo cho đời sống con cái được no đủ về vật chất, được giáo dục về
đạo đức và tinh thần. Nhất là để con cái hư hỏng vì lỗi lầm hay gương mù, gương
xấu.
303/ H: Trong
Tin Mừng, Hội Thánh dạy ta những nghĩa vụ nào để kiện toàn đạo hiếu?
T:
Hội Thánh dạy ta những nghĩa vụ này:
+
Một là tôn kính, biết ơn và vâng lời cha mẹ trong những điều chính đáng.
+
Hai là lo cho cha mẹ khi các ngài còn sống được đầy đủ về phần xác cũng như
phần hồn.
+
Ba là khi cha mẹ qua đời, phải lo việc an
táng, hương khói, làm các việc lành, cầu nguyện và dâng lễ cho các ngài.
304/ H: Anh chị
em có bổn phận nào đối với nhau?
T:
Anh chị em trong gia đình phải biết kính trên nhường dưới, yêu thương đùm bọc
lẫn nhau.
305/ H: Ta phải
có bổn phận nào đối với tổ quốc?
T:
Ta phải nhớ ơn các anh hùng dân tộc, yêu thương đồng bào, cùng nhau góp phần
xây dựng xã hội trong sự thật, công bằng, liên đới và tự do.
¶
¶¶
BÀI 33: ĐIỀU RĂN THỨ NĂM
TÔN TRỌNG SỰ SỐNG
I/ LỜI CHÚA
“Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: Chớ
giết người. Ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em
biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ
ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng, còn ai chửi anh em mình là quân
phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt” (Mt 5,21-22)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Tình yêu phải được
thể hiện qua thái độ tôn trọng người khác mà trước hết là tôn trọng sự sống của
họ, vì sự sống là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho con người. Vì
thế, điều răn thứ năm này dạy: “Không
được giết người”, hơn thế nữa, còn phải tôn trọng sự sống con người, sự
sống toàn diện và trong mọi chiều kích.
Sự sống con người
phải được coi là linh thánh vì chính Thiên Chúa tạo dựng con người. Chỉ một
mình Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vì thế không một ai, trong bất cứ hoàn
cảnh nào, có quyền trực tiếp giết chết một thụ tạo nhân linh vô tội.
Điều răn thứ năm coi
việc giết người cách trực tiếp và có chủ ý là một trọng tội. Điều răn này cũng
cấm làm một điều gì với ý hướng gây chết người cách gián tiếp.
Luật cấm giết người
là luật có giá trị phổ quát, bắt buộc mọi người, mọi nơi và mọi lúc. Chúa Giêsu
còn thêm vào đó lệnh cấm giận dữ, căm ghét, báo thù. (x. Mt 5,21)
III/ BÀI HỌC
306/ H: Điều răn
thứ năm dạy ta sự gì?
T: Điều răn thứ năm dạy ta quí trọng sự sống tự nhiên
và siêu nhiên của mình cũng như của người khác. Và do đó cấm mọi hình thức xâm
phạm đến sự sống con người.
307/ H: Tại sao
ta phải quí trọng sự sống thể xác?
T:
Vì thân xác ta là kỳ công của Thiên Chúa, là đền thờ Chúa Thánh Thần và ngày
sau sẽ sống lại.
308/ H: Có những
tội nào nghịch cùng điều răn thứ năm?
T:
Có những tội này:
+
Một là cố ý giết người trực tiếp hoặc gián tiếp.
+
Hai là tự sát.
+
Ba là hành hung, đánh đập, đả thương người khác.
+
Bốn là gây nguy hại cho sức khỏe mình và
người khác.
309/ H: Ta phải
làm gì để giúp cuộc sống chung ngày thêm tốt đẹp?
T:
Ta cần phải bỏ tính ích kỷ, nóng giận, trả thù. Cần tập luyện sự dịu hiền và
biết quan tâm đến người khác.
310/ H: Có khi
nào xâm phạm tới sự sống người khác mà chẳng mắc tội không?
T:
Có, trong trường hợp tự vệ chính đáng, để bảo vệ mạng sống mình hay bảo vệ tổ
quốc mà buộc lòng ta phải phạm đến người tấn công mình.
¶
¶¶
BÀI 34: ĐIỀU RĂN THỨ
SÁU VÀ THỨ CHÍN
SỐNG TRONG SẠCH
I/ LỜI CHÚA
“Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài
thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại
chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần sao?” (1Cr
6,18-19)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
Thiên Chúa tạo dựng
con người có nam, có nữ. Người nam và người nữ hoàn toàn bình đẳng với nhau vè
phẩm giá. Sự khác biệt và bổ sung về thể lý, luân lý và tinh thần giữa các phái
tính hướng đến lợi ích của hôn nhân và gia đình.
Mỗi người nam cũng
như người nữ phải nhận biết và chấp nhận căn tính tính dục của mình. Điều răn
thứ sáu đề cập đến mọi lĩnh vực về tính dục nơi con người.
Điều răn thứ sáu và
thứ chín dạy ta giữ đức trong sạch trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
III/ BÀI HỌC
311/ H: Điều răn
thứ sáu và thứ chín dạy ta sự gì?
T: Dạy ta giữ đức trong sạch trong tư tưởng, lời nói
và việc làm.
312/ H: Có những
tội nào nghịch cùng điều răn thứ sáu và thứ chín?
T:
Khi người ta nghĩ tưởng, nói năng, nhìn xem hay làm những điều dâm ô, thô tục.
313/ H: Đức
khiết tịnh đem lại cho ta điều gì?
T:
Đức khiết tịnh giúp cho sức sống và tình yêu của ta được nguyên tuyền để có thể
hiến trọn bản thân cho Thiên Chúa và đồng loại theo bậc sống mình.
314/ H: Sự khiết tịnh trong đời sống hôn nhân được biểu lộ thế nào?
T:
Được biểu lộ qua ba điều này:
+
Một là yêu thương và kính trọng nhau mọi ngày
+
Hai là trung thành với nhau suốt đời bằng một tình yêu không chia sẻ
+
Ba là sinh con một cách có trách nhiệm theo như luật Chúa dạy
315/ H: Muốn đứng vững trong đức khiết tịnh ta cần phải làm gì?
T:
Ta cần phải làm những điều này:
+
Một là nhớ mình yếu đuối để sáng suốt đề phòng
+
Hai là luôn sống tiết độ, hy sinh và ăn ở nết na
+
Ba là năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích
+
Bốn là tránh dịp tội cho mình và cho người khác
316/ H: Tại sao
phải giữ sự trong sạch trong tâm hồn?
T:
Vì tư tưởng và lòng trí trong sạch giúp ta dễ dàng nhìn mọi sự vật ở đời này
theo tinh thần của Thiên Chúa, đồng thời là điều kiện giúp ta chiêm ngắm Thiên
Chúa mai sau.
317/ H: Muốn giữ
tâm hồn trong sạch ta phải làm gì?
T:
Ta phải giữ những việc này:
+
Một là chuyên chăm cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích và trông cậy vào ơn Chúa.
+
Hai là sáng suốt làm chủ ngũ quan và trí tưởng tượng
+
Ba là sống đoan trang trong ăn mặc, nói năng, cư xử với người khác và xa lánh
dịp tội
+
Bốn là năng đọc Lời Chúa và sách báo lành mạnh
318/ H: Khi có
những hình ảnh, tư tưởng dâm ô trong tâm trí ta phải làm gì?
T:
Ta phải mau mắn loại bỏ và tránh dịp tội, đồng thời cầu xin Chúa và Đức Mẹ giúp
ta thắng vượt cám dỗ.
¶
¶¶
BÀI 35: ĐIỀU RĂN THỨ BẢY VÀ THỨ MƯỜI
SỐNG CÔNG BÌNH
I/ LỜI CHÚA
-
“Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho
người ta cái đó” (Rm 13,7)
- “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi
được” (Lc 14,33)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
“Những chênh lệch quá đáng về kinh tế và xã hội, giữa những thành phần
hay giữa những dân tộc trong cùng một gia đình nhân loại thực là gương xấu và
đi ngược với công bình và xã hội” (MV 29).
“Ai yêu người thì đã chu toàn lề luật”
(Rm 13, 8). Nhưng tình yêu đích thực phải được xây dựng trên nền tảng công
bằng. Vì thế, điều răn thứ bảy cấm không được ăn trộm, ăn cắp của người khác;
và trong Kinh Thánh, còn có nghĩa là cấm bắt cóc, lường gạt và dụ dỗ người khác
để chiếm hữu cho mình hoặc bán làm nô lệ. Đây là một vấn đề rất thiết thực và
quan trọng trong cuộc sống hôm nay.
III/ BÀI HỌC
319/ H: Điều răn
thứ bảy và thứ mười dạy ta sự gì?
T:
Dạy ta giữ đức công bằng và tôn trọng của cải người khác trong hành động cũng
như tư tưởng.
320/ H: Có những
tội nào nghịch cùng điều răn thứ bảy và thứ mười?
T:
Có hai loại tội này:
+
Một là lấy của người cách bất công như :
trộm cướp, gian lận, cho vay ăn lời quá đáng, hối lộ hoặc tham lam của công.
+
Hai là giữ của người khác cách bất công như : vay mượn mà không trả, không hoàn
trả của đã mượn hay lượm được, trốn lậu thuế, oa trữ của gian.
321/ H: Kẻ đã
lỗi đức công bằng thì phải làm thế nào?
T:
Phải hoàn trả lại những tài sản đã chiếm đoạt và bồi thường cân xứng những
thiệt hại đã gây ra.
322/ H: Kẻ làm thiệt hại danh giá người ta có phải đền trả không?
T:
Phải đền trả danh thơm tiếng tốt cho người ta, và nếu có gây thiệt hại vật chất
thì cũng phải bồi thường.
323/ H: Điều răn
thứ bảy còn dạy gì về giá trị thiên nhiên?
T:
Điều răn thứ bảy còn dạy ta tôn trọng môi sinh, sử dụng đúng đắn các thú vật,
cỏ cây và vật chất vô tri giác vì lợi ích toàn diện của mọi người.
324/ H: Người tín hữu cần góp phần thế nào vào các vấn đề xã hội?
T:
Cần có sáng kiến góp phần theo ba cách:
+
Một là cùng với các công dân khác dấn thân hành động để lo cho ích chung, làm
cho cơ cấu xã hội ngày càng thấm nhuần tinh thần Tin Mừng
+
Hai là tận tâm lo cho những người nghèo khó và quẫn bách
+ Ba là không được tham lam và sử dụng của cải cách
ích kỷ.
325/ H: Sự tham
lam làm hại ta thế nào?
T: Sự tham lam khiến lòng ta ra mù tối, rối loạn,
phán đoán lệch lạc, phai lạt tình yêu mến và dễ sa ngã phạm tội.
326/ H: Muốn
chống lại tính ghen tị cần phải làm những gì?
T:
Ta cần biết cầu xin sự lành cho người khác và xin ơn biết vui mừng khi họ được
may lành.
327/ H: Muốn giữ
lòng khỏi ham mê của cải quá đáng, ta cần làm những gì?
T:
Ta cần tập sống tinh thần nghèo khó để hằng ngày biết hy sinh từ bỏ, tập tành
ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời, và nhất là luôn hướng lòng về Thiên Chúa,
ước ao được ngắm nhìn Người.
¶
¶¶
BÀI 36: ĐIỀU RĂN THỨ TÁM
SỐNG THEO SỰ THẬT
I/ LỜI CHÚA
“Anh em hãy tránh hẳn dối trá, mỗi người hãy nói thật với người đồng
loại” (Ep 4,25-32)
II/ TRÌNH BÀY NỘI DUNG GIÁO LÝ
“Ai yêu thương người
ấy chu toàn lề luật”. Nhưng tình yêu đích thực phải được hướng dẫn và soi sáng
bởi chân lý, và chỉ có chân lý mới giải thoát chúng ta”(x. Ga 8,32)
Kinh Thánh thường
nhấn mạnh Thiên Chúa là nguồn mạch mọi chân lý, Lời Chúa là chân lý, luật của
Chúa là chân lý. (x. Lc 1,50, Tv 119).
Chân lý của Thiên
Chúa được thể hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu, là ánh sáng thế gian và là chính
chân lý. Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài phải tuyệt đối yêu mến chân lý: “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt
5,37).
Vì Thiên Chúa là chân
lý nên Dân của Chúa phải sống trong chân lý, nghĩa là phải thành thật trong lời
nói cũng như hành động; tránh xa lối sống hai mặt, dối trá và đạo đức giả.
Trong đời sống chung việc tôn trọng sự thật là điều kiện hết sức cần thiết để
xây dựng sự tin tưởng cho nhau.
Khi dạy ta “chớ làm
chứng dối”, Thiên Chúa muốn ta luôn sống theo sự thật, vì Người chính là sự
thật và là nguồn mạch mọi sự thật. Có sống theo sự thật, ta mới xứng đáng là
con cái của Thiên Chúa chân thật và là môn đệ của Chúa Giêsu, Đấng đã phán: “Ta
là sự thật”.
Là người tín hữu,
chúng ta quyết sống theo sự thật để làm chứng cho Thiên Chúa là Đấng chân thật.
III/ BÀI HỌC
328/ H: Điều răn
thứ tám dạy ta sự gì?
T:
Dạy ta sống thành thật, làm chứng cho sự thật và tôn trọng danh dự mọi người.
329/ H: Có những
tội nào nghịch với điều răn thứ tám?
T:
Có những tội này:
+
Một là làm chứng gian dối và bội thề
+
Hai là làm mất thanh danh kẻ khác như : nói hành, nói xấu, vu khống, cáo gian.
+
Ba là nói dối, nói láo.
+
Bốn là không làm chứng bênh vực cho sự thật.
330/ H: Vì sao
ta cần sống thành thật?
T:
Ta cần sống thành thật vì ba lẽ này:
+
Một là vì Thiên Chúa là Đấng chân thật và là chính sự thật
+
Hai là vì sự thành thật làm tăng giá trị con người
+
Ba là vì sự thành thật rất cần cho đời sống chung
331/ H: Có những
nguyên tắc nào hướng dẫn việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội
không?
T:
Có những nguyên tắc này:
+
Một là các phương tiện truyền thông phải phục vụ lợi ích chung, nghĩa là tôn
trọng sự thật, tự do, công bình và tình liên đới
+
Hai là những người lãnh đạo có trách nhiệm bảo vệ và bênh vực tự do đích thực
và chính đáng trong việc thông tin
332/ H: Ta phải
tôn trọng sự thật thế nào?
T:
Phải tôn trọng sự thật trong tình bác ái, nghĩa là không bao giờ được phép nói
dối, nhưng khi có điều gì lương tâm buộc giữ kín thì phải nói sao để điều ấy
khỏi bị tiết lộ ra.
333/ H: Phải tôn
trọng thanh danh người khác thế nào?
T:
Phải nghĩ tốt cho mọi người, không được nói xấu ai, và khi không có luật lệ hay
ích chung đòi buộc, thì không được tố cáo điều lỗi của người khác.
334/ H: Nếu đã
làm thiệt hại thanh danh của người khác thì phải làm gì?
T:
Phải tìm mọi cách để trả lại tiếng tốt cho họ và bồi thường cả những thiệt hại
vật chất kèm theo nếu có.
335/ H: Ta phải
làm gì để sống theo sự thật?
T:
Ta phải trung thành giữ lời hứa, can đảm nhìn nhận lầm lỗi của mình và chân
thành góp ý cho nhau.
336/ H: Ta phải
góp ý xây dựng cho nhau thế nào?
T:
Ta nên góp ý xây dựng trong tình yêu thương, chứ không nên vì thù oán hay ganh
tị mà nói những lời châm chọc, mỉa mai hay là nói hành bới móc người khác.
¶
¶¶
PHẦN IV: KINH NGUYỆN
KITÔ GIÁO
BÀI 37: KINH NGUYỆN
TRONG ĐỜI SỐNG KITÔ GIÁO
I/ LỜI CHÚA
“Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong thì có
một người trong nhóm môn đệ nói với Người: Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu
nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông” (Lc 11,1)
II/ BÀI HỌC
337/ H: Cầu
nguyện là gì?
T:
Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên cùng Chúa để gặp gỡ và hiệp thông với Người
trong tình yêu thương.
338/ H: Tại sao
ta phải cầu nguyện?
T:
Vì cầu nguyện là liên kết ta với Thiên Chúa là nguồn sự sống. Hơn nữa, Người
vẫn hằng kêu mời và chờ đợi ta đến thưa chuyện với Người.
339/ H: Ta cầu
nguyện với ai và với mục đích gì?
T:
Ta cầu nguyện với Thiên Chúa để tôn vinh, cảm tạ, xin lỗi và cầu xin ơn phúc.
340/ H: Ta có
thể cầu nguyện khi nào?
T:
Ta có thể cầu nguyện bất cứ lúc nào trong đời sống như:
+
Tạ ơn Chúa khi lãnh nhận những ơn lành.
+
Ngợi khen Chúa khi ta hân hoan vui sướng.
+
Xin lỗi Chúa khi lầm lỡ phạm tội.
+
Và có thể xin Người ban những ơn cần thiết.
341/ H: Ta có
thể cầu nguyện ở đâu?
T:
Ta có thể cầu nguyện bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, nhưng nhà thờ vẫn là nơi
dành riêng cho việc cầu nguyện.
342/ H: Cầu
nguyện có cần thiết không?
T:
Rất cần thiết, vì cầu nguyện là hơi thở của người tín hữu, nhờ đó mà đời sống
thiêng liêng của chúng ta sống động và phong phú.
Hội Thánh khuyên ta
cầu nguyện ban sáng, ban tối, trước bữa ăn, nhất là khi cần ơn Chúa trợ giúp
như lúc gặp gian nan, thử thách.
343/ H: Có mấy
cách cầu nguyện?
T:
Có nhiều cách cầu nguyện như:
+
Dùng lời nói, câu kinh, tiếng ca để biểu lộ tâm tình gọi là khẩu nguyện.
+
Dùng trí khôn suy nghĩ về Chúa gọi là trí nguyện.
+
Thinh lặng, chiêm ngắm, lắng nghe Chúa với tâm tình cảm mến sâu xa nồng nàn gọi
là tâm nguyện.
344/ H: Ai là
mẫu gương cầu nguyện?
T:
Chính Chúa Giêsu là mẫu gương cầu nguyện hoàn hảo nhất.
345/ H: Chúa
Giêsu đã cầu nguyện với tâm tình nào?
T:
Chúa Giêsu đã cầu nguyện trong tâm tình hiếu thảo. Người kết hiệp liên lỉ với
Chúa Cha trong tình yêu mến, vâng phục, mà đỉnh cao là cái chết trên thập giá.
346/ H: Chúa
Giêsu dạy ta cầu nguyện thế nào?
T:
Chúa Giêsu đã nêu khuôn mẫu để dạy ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha:
+
Một là hướng tâm hồn lên Thiên Chúa là Cha.
+ Hai là tôn vinh Danh Chúa, Nước Chúa và Thánh Ý
Người.
+
Ba là nguyện xin cho những nhu cầu của con người.
347/ H: Trong
đời sống người tín hữu, “kinh Lạy Cha” có quan trọng không?
T:
Rất quan trọng, vì đó là bản kinh tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là lời kinh của
Chúa Giêsu dạy các môn đệ, và là lời kinh của Hội Thánh.
348/ H: Tại sao
gọi “kinh Lạy Cha” là lời kinh của Hội Thánh?
T:
Vì trong phụng vụ của Hội Thánh, kinh Lạy Cha là thành phần không thể thiếu,
luôn chiếm ưu thế đặc biệt trong các giờ kinh phụng vụ, trong Thánh lễ và trong
các bí tích gia nhập Kitô giáo.
349/ H: Khi
nguyện “xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, chúng ta xin gì?
T:
Chúng ta phó thác vào Thiên Chúa quan phòng và xin Cha ban lương thực vật chất
cũng như tinh thần để ta sống đẹp lòng Chúa và phụng thờ Người.
350/ H: Khi đọc
“kinh Lạy Cha”, ta nên có tâm tình nào?
T:
Ta phải đọc kinh Lạy Cha trong niềm tin tưởng, phó thác như Chúa Giêsu đối với
Chúa Cha, và làm cho cuộc sống ta hòa nhập theo lời kinh Chúa dạy.
¶
¶¶
KINH NGUYỆN CỘNG
ĐOÀN
Dấu Thánh Giá
Nhân danh Cha và Con
và Thánh Thần. Amen.
Kinh Sấp Mình
Lạy Chúa / con sấp
mình xuống trước mặt Chúa / con tin thật Chúa ở khắp mọi nơi thông biết mọi sự
/ hằng xem thấy con hằng nghe lời con cầu nguyện / xin Chúa rất nhân từ đoái
xem sự nghèo ngặt con / và nhận lời con nguyện.
X.
Lạy Chúa / xin hãy mở miệng lưỡi con ra.
Đ.
Thì con sẽ cao rao những lời ngợi khen Chúa.
Kinh Đức Chúa
Thánh Thần
Chúng con lạy ơn Đức
Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng. / Chúng con xin Đức Chúa Thánh
Thần xuống đầy lòng chúng con / là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời / và đốt lửa kính
mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con.
X.
Chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.
Đ.
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng
con cầu cùng Đức Chúa Trời / xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy
dỗ các thánh Tông Đồ,/ thì rầy chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa
Thánh Thần lại xuống / yên ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành. / Vì công
nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
Kinh Sáng Soi
Cúi xin Chúa sáng soi
cho chúng con được biết việc phải làm / cùng khi làm / xin Chúa giúp đỡ cho mỗi
kinh mỗi việc chúng con / từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa.
Amen.
Kinh Tin
Lạy Chúa con / con
tin thật có một Đức Chúa Trời là Đấng thưởng phạt vô cùng. / Con lại tin thật
Đức Chúa Trời có Ba Ngôi / mà Ngôi thứ hai đã xuống thế làm người chịu nạn chịu
chết mà chuộc tội cho thiên hạ. / Bấy nhiêu điều ấy, cùng các điều Hội Thánh
dạy, thì con tin vững vàng / vì Chúa là Đấng thông minh và chân thật vô cùng /
đã phán truyền cho Hội Thánh. Amen.
Kinh Cậy
Lạy Chúa con / con
trông cậy vững vàng vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu / thì Chúa sẽ ban ơn cho con
giữ đạo nên ở đời này / cho ngày sau được lên Thiên Đàng / xem thấy mặt Đức
Chúa Trời hưởng phúc đời đời, / vì Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng /
đã phán hứa sự ấy chẳng có lẽ nào sai được. Amen.
Kinh Kính Mến
Lạy Chúa con / con
kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự, / vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn
lành vô cùng / lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen.
Kinh Lạy Cha
Lạy Cha chúng con ở
trên trời / chúng con nguyện danh Cha cả sáng / Nước Cha trị đến / ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con
hôm nay lương thực hằng ngày / và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có
nợ chúng con / xin chớ để chúng con sa trước cám dỗ / nhưng cứu chúng con cho
khỏi sự dữ. Amen.
Kinh Kính Mừng
Kính mừng Maria đầy
ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà / Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con
lòng Bà gồm phúc lạ. / Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời / cầu cho chúng con là kẻ
có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.
Kinh Sáng Danh
Sáng danh Đức Chúa
Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Như đã có trước vô cùng và bây giờ
và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.
Kinh Tin Kính
Tôi tin kính Đức Chúa
Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. / Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu
Kitô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi, / bởi phép Đức Chúa Thánh
Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh / chịu nạn đời quan
Phong-xi-ô Phi-la-tô / chịu đóng đinh trên cây thánh giá / chết và táng xác /
xuống ngục tổ tông / ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại / lên trời ngự
bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng / ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ
sống và kẻ chết. / Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. / Tôi tin có Hội Thánh
hằng có ở khắp thế này / các thánh thông công. / Tôi tin phép tha tội. / Tôi
tin xác loài người ngày sau sống lại. / Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Kinh Thú Nhận
Tôi thú nhận cùng
Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em / tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng
/ lời nói / việc làm và những điều thiếu xót / Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi
tại tôi mọi đàng / Vì vậy tôi xin rất thánh Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh /
các thiên thần, các thánh và anh chị em / khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên
Chúa, Chúa chúng ta. Amen.
Kinh Ăn Năn Tội
Lạy Chúa con / Chúa
là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng / Chúa đã dựng nên con / và cho con Chúa ra
đời chịu nạn chịu chết vì con / mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng
Chúa / thì con lo buồn đau đớn, cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự. /
Con dốc lòng chừa cải / và nhờ ơn Chúa thì con sẽ lánh xa dịp tội / cùng làm
việc đền tội cho xứng. Amen.
Kinh Cám Ơn
Con cám ơn Đức Chúa
Trời là Chúa lòng lành vô cùng / chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời / mà
lại sinh ra con, cho con được làm người, cùng hằng gìn giữ con, hằng che chở
con / lại cho Ngôi Hai xuống thế làm người chuộc tội, chịu nạn chịu chết trên
cây thánh giá vì con / lại cho con được đạo thánh Đức Chúa Trời, cùng chịu
nhiều ơn nhiều phép Hội Thánh nữa / và đã cho phần xác con ngày hôm nay được
mọi sự lành / lại cứu lấy con kẻo phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp. / Vậy
các thánh ở trên nước Thiên Đàng cám ơn Đức Chúa Trời thế nào / thì con cũng
hiệp cùng các thánh mà dâng cho Chúa con cùng cám ơn như vậy. Amen.
Kinh Trước Khi
Xét Mình
Lạy Chúa là sự sáng
linh hồn con / Xin soi sáng cho con được biết mọi tội con đã phạm trong ngày
hôm nay / hoặc lo, hoặc nói, hoặc làm điều gì lỗi nghĩa cùng Chúa / Con lại xin
Chúa, vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu / ban ơn cho con được ăn năn ghét tội, cùng
dốc lòng chừa thật. Amen.
Kinh Phó Dâng
Lạy Chúa con, con xin
phó dâng linh hồn và xác con ở trong tay Chúa / Chúa đã phù hộ con ban ngày,
thì xin Chúa cũng gìn giữ con ban đêm / kẻo sa phạm tội gì mất lòng Chúa, hay
là chết tươi ăn năn tội chẳng kịp. / Chớ gì sống chết, con được giữ một lòng
kính mến Chúa luôn. Amen.
Kinh Mười Điều
Răn
Đạo
Đức Chúa Trời có mười điều răn
Thứ nhất, thờ phượng
một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
Thứ hai, chớ kêu tên
Đức Chúa Trời vô cớ.
Thứ ba, giữ ngày Chúa
Nhật.
Thứ bốn, thảo kính
cha mẹ.
Thứ năm, chớ giết
người.
Thứ sáu, chớ làm sự
dâm dục.
Thứ bảy, chớ lấy của
người.
Thứ tám, chớ làm
chứng dối.
Thứ chín, chớ muốn vợ
chồng người.
Thứ mười, chớ tham
của người.
Mười điều răn ấy tóm
về hai điều này mà chớ : Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau
lại yêu người như mình ta vậy. Amen.
Kinh Năm Điều
Răn
Hội
Thánh có năm điều răn
+
Thứ nhất: Dự lễ và kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc.
+
Thứ hai: Xưng tội một năm ít là một lần.
+
Thứ ba: Rước Mình Thánh Chúa trong mùa Phục Sinh
+
Thứ bốn: Giữ chay và kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc
+
Thứ năm: Góp công góp của xây dựng Hội Thánh, tùy theo khả năng của mình.
Kinh Bảy Phép Bí
Tích
Đạo
đức Chúa Trời có bảy phép bí tích
Thứ nhất là phép Rửa
Tội.
Thứ hai là phép Thêm
Sức.
Thứ ba là phép Mình
Thánh Chúa.
Thứ bốn là phép giải
Tội.
Thứ năm là phép Xức
Dầu Thánh.
Thứ Sáu là phép
Truyền Chức Thánh.
Thứ bảy là phép Hôn
Phối.
Kinh Mười Bốn
Mối Thương Người
Thương
người có mười bốn mối.
Thương
xác bảy mối:
Thứ nhất, cho kẻ đói
ăn,
Thứ hai, cho kẻ khát
uống,
Thứ ba, cho kẻ rách
rưới ăn mặc,
Thứ bốn, viếng kẻ
liệt cùng kẻ tù tội,
Thứ năm, cho khách
trọ nhà,
Thứ sáu, chuộc kẻ làm
tôi,
Thứ bảy, chôn xác kẻ
chết.
Thương
linh hồn bảy mối
Thứ nhất, lấy lời
lành mà khuyên người,
Thứ hai, mở dạy kẻ mê
muội,
Thứ ba, yên ủi kẻ âu
lo,
Thứ bốn, răn bảo kẻ
có tội,
Thứ năm, tha kẻ dể
ta,
Thứ sáu, nhịn kẻ mất
lòng ta,
Thứ bảy, cầu cho kẻ
sống và kẻ chết.
Kinh Cải Tội Bảy
Mối
Cải
tội bảy mối có bảy đức
Thứ nhất, khiêm
nhường chớ kiêu ngạo,
Thứ hai, rộng rãi chớ
hà tiện,
Thứ ba, giữ mình sạch
sẽ chớ mê dâm dục,
Thứ bốn, hay nhịn chớ
hờn giận,
Thứ năm, kiêng bớt
chớ mê ăn uống,
Thứ sáu, yêu người
chớ ghen ghét,
Thứ bảy, siêng năng
việc Đức Chúa Trời chớ làm biếng.
Kinh Tám Mối
Phúc Thật
Phúc
thật tám mối
Thứ
nhất: Ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật, vì chưng Nước Đức Chúa Trời là của
mình vậy.
Thứ
hai: Ai hiền lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được Đất Đức Chúa Trời làm của
mình vậy.
Thứ
ba: Ai khóc lóc ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được an ủi vậy.
Thứ
bốn: Ai khao khát nhân đức trọn lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no đủ
vậy.
Thứ
năm: Ai thương xót người ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được thương xót vậy.
Thứ
sáu: Ai giữ lòng sạch sẽ ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thấy mặt Đức Chúa
Trời vậy.
Thứ
bảy: Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con
Đức Chúa Trời vậy.
Thứ
tám: Ai bị ngược đãi vì chính đạo ấy là phúc thật, vì chưng Nước Đức Chúa Trời
là của mình vậy.
¶
¶¶
LẦN HẠT MÂN CÔI
NĂM SỰ VUI
Thứ nhất thì ngắm:
- Thiên
Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai.
- Ta hãy
xin cho được ở khiêm nhường.
Thứ hai thì ngắm:
- Đức Bà
đi viếng bà thánh I-sa-ve
- Ta hãy
xin cho được lòng yêu người
Thứ ba thì ngắm:
- Đức Bà
sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá
- Ta hãy
xin cho được lòng khó khăn
Thứ bốn thì ngắm:
- Đức Bà
dâng Đức Chúa Giêsu trong đền thánh
- Ta hãy
xin cho được vâng lời chịu lụy.
Thứ năm thì ngắm:
- Đức Bà
tìm được Đức Chúa Giêsu trong đền thánh
- Ta hãy
xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn.
NĂM SỰ SÁNG
Thứ nhất thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan
- Ta hãy
xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa.
Thứ hai
thì ngắm:
- Đức Chúa Giêsu dự tiệc cưới Ca-na
- Ta hãy
xin cho được vững tin vào quyền năng của Ngài.
Thứ ba thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối
- Ta hãy
xin cho được hoán cải và đón nhận Tin Mừng.
Thứ bốn thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu biến hình trên núi
- Ta hãy
xin cho được lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
Thứ năm thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể
- Ta hãy xin cho được năng kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh
Thể.
NĂM SỰ THƯƠNG
Thứ nhất thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu
- Ta hãy xin cho được ăn năn tội nên.
Thứ hai thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu chịu đánh đòn
- Ta hãy
xin cho được hãm mình chịu khó bằng lòng.
Thứ ba thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu chịu đội mào gai
- Ta hãy
xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng.
Thứ bốn thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu vác cây thánh giá
- Ta hãy
xin cho được vác thánh giá theo chân Chúa.
Thứ năm thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá
- Ta hãy xin cho được đóng đinh tính xác thịt vào thánh giá
Chúa.
NĂM SỰ MỪNG
Thứ nhất thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu sống lại
- Ta hãy
xin cho được sống lại thật về phần linh hồn.
Thứ hai thì ngắm:
- Đức
Chúa Giêsu lên Trời
- Ta hãy
xin cho được ái mộ những sự Trên Trời.
Thứ ba thì ngắm:
- Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống
- Ta hãy
xin cho được đầy dẫy mọi ơn Đức Chúa Thánh Thần.
Thứ bốn thì ngắm:
- Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên Trời
- Ta hãy
xin cho được ơn chết lành trong tay Đức Mẹ.
Thứ năm thì ngắm:
- Đức
Chúa Trời thưởng Đức Mẹ Trên Trời
- Ta hãy
xin Đức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng.
¶
¶¶
MỤC LỤC
PHẦN
MỞ ĐẦU: NHỮNG NỀN TẢNG ĐỨC TIN
CÔNG GIÁO ………………...................................01
BÀI
1: CON
NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG
NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA ………….....................................01
BÀI
2: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI ..................................04
BÀI
3: CON
NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA ....................................07
PHẦN
THỨ NHẤT: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN ..................................10
BÀI
4: THIÊN
CHÚA DUY NHẤT……………...................................10
BÀI
5: THIÊN
CHÚA BA NGÔI ………………..................................13
BÀI
6: THIÊN
CHÚA ĐẤNG SÁNG TẠO
VÀ QUAN PHÒNG …………………………………..............15
BÀI
7: THIÊN
CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI ...............................18
BÀI
8: SỰ
SA NGÃ VÀ HÌNH PHẠT …………...................................21
BÀI
9: ĐỨC
GIÊSU CON MỘT THIÊN CHÚA ...................................23
BÀI
10: CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU ………………….....27
BÀI
11: CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI VÀ LÊN TRỜI ………………….31
BÀI
12: CHÚA THÁNH THẦN ……………….....................................35
BÀI
13: HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ
CỦA THIÊN CHÚA ………………….......................................39
BÀI
14: TỔ CHỨC HỘI THÁNH CÔNG GIÁO . ..................................44
BÀI
15: ĐẶC TÍNH CỦA HỘI THÁNH ……….....................................46
BÀI
16: HỘI THÁNH CÔNG GIÁO VIỆT NAM ……………………..50
BÀI
17: ĐỨC MARIA TRONG HỘI THÁNH ........................................54
PHẦN
II: CỬ HÀNH MẦU NHIỆM KITÔ GIÁO …………………….55
BÀI
18: PHỤNG VỤ VÀ BÍ TÍCH ……………......................................55
BÀI
19: BÍ TÍCH RỬA TỘI …………………….....................................59
BÀI
20: BÍ TÍCH THÊM SỨC ………………….....................................61
BÀI
21: BÍ TÍCH THÁNH THỂ ……………...........................................64
BÀI
22: THÁNH LỄ …………………………........................................66
BÀI
23: BÍ TÍCH HÒA GIẢI …………………........................................69
BÀI
24: BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN …........................................72
BÀI
25: BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH ...........................................74
BÀI
26: BÍ TÍCH HÔN PHỐI ………………….......................................76
PHẦN
III: ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KITÔ ….........................................78
BÀI
27: LUẬT LUÂN LÝ VÀ NHÂN ĐỨC ….........................................78
BÀI
28: MƯỜI ĐIỀU RĂN ĐỨC CHÚA TRỜI ........................................81
BÀI
29: ĐIỀU RĂN THỨ NHẤT
THỜ PHƯỢNG VÀ KÍNH MẾN THIÊN CHÚA
……………...84
BÀI
3: ĐIỀU RĂN THỨ HAI
TÔN KÍNH DANH THÁNH CHÚA …...........................................85
BÀI
31: ĐIỀU RĂN THỨ BA
THÁNH HÓA NGÀY CHÚA NHẬT ............................................87
BÀI
32: ĐIỀU RĂN THỨ TƯ
THẢO KÍNH CHA MẸ ……………….........................................89
BÀI
33: ĐIỀU RĂN THỨ NĂM
TÔN TRỌNG SỰ SỐNG ……………..........................................91
BÀI
34: ĐIỀU RĂN THỨ SÁU VÀ THỨ CHÍN
SỐNG TRONG SẠCH ………………..........................................93
BÀI
35: ĐIỀU RĂN THỨ BẢY VÀ THỨ MƯỜI
SỐNG CÔNG BÌNH ......................................................................95
BÀI
36: ĐIỀU RĂN THỨ TÁM
SỐNG THEO SỰ THẬT ……………...........................................97
PHẦN
IV: KINH NGUYỆN KITÔ GIÁO ……........................................100
BÀI
37: KINH NGUYỆN
TRONG ĐỜI SỐNG KITÔ GIÁO …...........................................100
KINH
NGUYỆN CỘNG ĐOÀN ……………..........................................103
=====//////=====
Lm. Giuse Phạm
Thanh Minh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét